Ông Nguyễn Đức Kiên, còn được gọi là 'bầu Kiên', một trong những người giàu nhất Việt Nam |
Mặc dù vậy, thông cáo của S&P công bố hôm nay (29-08-2012) cũng cho biết họ hiểu rằng áp lực thanh khoản phát xuất từ vụ này chỉ giới hạn ở ngân hàng ACB và họ tin rằng có phần chắc là những ngân hàng khác ở Việt Nam sẽ không đối mặt với một tình huống tương tự.
Thông cáo nói thêm rằng S&P tin là việc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam bảo đảm hỗ trợ thanh khoản cho ACB có thể giảm thiểu nguy cơ lan rộng rủi ro trong hệ thống ngân hàng Việt Nam.
S&P cũng nhận định rằng quá trình phục hồi niềm tin vào hệ thống ngân hàng và chính sách tiền tệ của Việt Nam đang ở trong giai đoạn đầu và cần có sự quản lý thận trọng.
Nhận định tương đối lạc quan của S&P được loan báo trong cùng ngày giá chứng khoán ở Việt Nam đảo chiều để gia tăng trở lại.
Tin tức từ Hà Nội cho biết Vn-Index sáng thứ tư tăng 4,07 điểm, tương đương với 1,06%, trong đợt khớp lệnh đầu tiên.
Nguồn: S&P, Reuters
Bài viết này nhằm bốn mục đích:
- Đóng góp ý kiến vào việc cải tổ Hiến Pháp.
- Đáp ứng đề nghị của luật sư Đặng Dũng từ trong nước kêu gọi giới luật học hải ngoại đóng góp những nghiên cứu chuyên môn giúp nâng cao kiến thức luật học cho giới lãnh đạo chính trị, lãnh đạo luật học và sinh viên luật trong nước.
- Giải đáp câu hỏi của một nữ sinh viên luật trong nước gửi các luật gia hải ngoại về từ ngữ liên quan.
- Góp phần thảo luận với các luật gia hải ngoại trên hệ thống emails nội bộ về từ ngữ đề cập
Rule of law là dân chủ. Rule by law là dân chủ giả hiệu.
Rule of Law được giới luật VNCS dịch là Pháp Quyền, Rule by law là Pháp Trị. Nhưng nhiều người chưa hiểu rõ nội dung của hai cụm từ này. Ngay cả không ít những người dùng nó cũng chẳng hiểu rõ ý nghĩa. Chưa kể giới lãnh đạo chính trị CS lại luôn muốn lường gạt nhân dân bằng cách nhập nhằng ý nghĩa của hai cụm từ này để tỏ rằng phương cách cai trị của đảng cũng dân chủ.
Giáo sư Vũ Quốc Thúc, một trong các giáo sư luật hàng đầu của Việt Nam Cộng Hòa, mới đây đã xác nhận tại miền Nam Việt Nam trước 1975 ông không nghe nói tới từ Pháp Quyền mà chỉ nghe nói tới cụm từ “Nguyên Tắc Thượng Tôn Luật Pháp.” Là một trong hàng ngàn học trò trực tiếp của Giáo Sư, tôi tin sự xác định của ông. Và trong một số bài viết về tư pháp (trong vụ án Cù Huy Hà Vũ), tôi cũng dùng cụm từ Nguyên Tắc Thượng Tôn Luật Pháp để dịch Rule of Law.
Phân tích một cách chuyên môn, chi tiết, Rule of law có cả ba nghĩa: Rule according to law; rule under law; or rule according to a higher law (http://legal-dictionary.thefreedictionary.com/Rule+of+law). Trong nghĩa thứ nhất, “ rule according to law” thì kẻ cầm quyền (chính phủ) không thể trừng phạt hình sự hay dân sự một người nào mà không nghiêm chỉnh tuân theo những thủ tục tố tụng và những đạo luật được hình thành một cách cẩn trọng và được định danh một cách rõ ràng (well-established and clearly defined laws and procedures). Trong nghĩa thứ hai Rule under law, không một ngành nào của chính phủ được đứng trên luật pháp, và không một viên chức công quyền nào có thể hành xử một cách độc đoán hay đơn phương (unilaterally), đứng ngoài luật pháp. Hay nói một cách ngắn gọn, “Không ai được đứng trên luật pháp”. Trong nghĩa thứ ba, rule according to the higher law, thì chính quyền không thể cưỡng hành một đạo luật thành văn nào nếu đạo luật đó không phù hợp với một số nguyên tắc bất thành văn, phổ quát (universal) của sự công bằng (fairness), đạo đức (morality), và công lý (justice) là những nguyên tắc đứng trên mọi hệ thống luật pháp do con người tạo lập (that transcend human legal systems.) Khi dùng từ higher law, các học giả phương tây muốn nói tới luật tự nhiên (natural law). Tóm lại, những nguyên tắc của luật tự nhiên đứng trên mọi luật pháp do con người hình thành.
Quan điểm cho rằng có những nguyên tắc pháp lý có sẵn trong thiên nhiên (Natural law theory) mà những đạo luật do con người lập ra cần tuân thủ thường được tóm gọn trong thành ngữ “Một đạo luật bất công không thực sự là luật” (an unjust law is not a true law, lex iniusta non est lex,) trong đó từ “bất công” (unjust) được định nghĩa là trái với luật tự nhiên. Luật tự nhiên đôi khi cũng được tóm gọn trong thành ngữ (maxim) tương tự “một đạo luật bất công thì chẳng phải là luật gì cả (“an unjust law is no law at all”).
Và chính từ luật tự nhiên mà luật do con người tạo ra (hiến pháp và luật pháp) có được tính cách cưỡng hành (a b c Shiner, “Philosophy of Law”, Cambridge Dictionary of Philosophy). Luật tự nhiên thật gần gũi với khái niệm đạo đức (morality). Chính vì thế, về bản chất, Rule of law là một khái niệm về thuần túy đạo đức (an intrinsically moral notion).
Tóm lại, để xây dựng một chế độ pháp quyền (hay thượng tôn luật pháp-Rule of law), cần phải có những đạo luật và những thủ tục được xây dựng một cách tốt đẹp và được định danh một cách rõ ràng (well-established and clearly defined laws and procedures); đồng thời những đạo luật đó phải có nội dung phù hợp với những nguyên tắc bất thành văn, phổ quát (universal) là công bằng (fairness), đạo đức (morality), và công lý (justice).
Cụm từ “Rule of law” lần đầu tiên được thấy trong một đơn trình từ hạ viện Anh (House of Commons) gửi lên Hoàng Đế James I của Anh Quốc vào năm 1610. Đơn đó ca ngợi việc dân chúng được hạnh phúc và tự do dưới sự dẫn dắt và cai trị bởi rule of the law (http://en.wikipedia.org/wiki/Rule_of_law#Antiquity). Tới tk 19 thành ngữ Rule of law trở thành phổ thông bởi luật gia Anh quốc A.V. Dicey. Nhưng khái niệm này quen thuộc đối với các tư tưởng gia cổ điển phương tây (Hy Lạp) từ 2500 năm trước như Plato (427-327 trước công nguyên) và Aristotle (384-322 trước công nguyên). Plato viết, “Ở đâu luật pháp dưới trướng nhà cầm quyền thì sự xụp đổ của quốc gia (state) không xa; nhưng ở đâu mà luật pháp đứng trên chính quyền thì tình hình có nhiều hứa hẹn và dân chúng vui hưởng trọn vẹn những ân sủng của thượng đế ban cho quốc gia. Aristotle thì viết “Luật pháp nên cai trị” (Law should govern). Rule of law hàm ý rằng mọi công dân đều phải tuân theo luật pháp (every citizen is subject to the law), dù người đó là vua, tổng thống, chủ tịch nước, hay tổng bí thư đảng. Ý niệm này ngược với ý tưởng vua đứng trên luật pháp bởi lý thuyết vương quyền (divine right), theo đó quyền của nhà vua tới từ thượng đế chứ không phải từ sự đồng lòng của nhân dân. (http://en.wikipedia.org/wiki/Rule_of_law).
Như vậy trong suốt thời quân chủ, trước khi nước cộng hòa đầu tiên của thời cận đại ra đời (Hoa Kỳ năm 1776), với lý thuyết vương quyền, trên thế giới hoàn toàn không có quốc gia nào áp dụng nguyên tắc thượng tôn luật pháp (Rule of law); mà, nói một cách đơn giản, tất cả mọi quốc gia đều theo nguyên tắc Rule by law, tức nguyên tắc luật pháp phục vụ nhà cầm quyền. Trong chế độ đó vua đứng trên luật pháp, hay vua là luật pháp (king is law). Chỉ có điều cụm từ Rule by law thời đó chưa xuất hiện.
Vào năm 1776, khái niệm “không ai đứng trên luật pháp” đã phổ biến trong giai đoạn Hoa Kỳ khởi đầu lập quốc. Ví dụ, vào lúc khởi đầu cuộc cách mạng dành độc lập của Hoa Kỳ, ông Thomas Paine đã viết một tập sách mỏng có tên Common Sense nhằm kêu gọi đòi độc lập khỏi Anh Quốc, trong đó ông viết, “Ở Hoa Kỳ, luật là vua (the law is king). Trong khi ở các quốc gia quân chủ độc đoán Vua là luật (King is law), thì ở những quốc gia tự do luật phải là vua (law ought to be king) và không thể là gì khác.”
Trong hai thế kỷ tiếp theo đó nhiều quốc gia quân chủ tiến bộ đã biến thành quân chủ lập hiến hay cộng hòa, một chính thể không có vua, Rule of law trở nên phổ biến và quần chúng ngày càng khát vọng dân chủ. Trước trào lưu đó, một số kẻ cầm quyền ở những quốc gia theo chính thể cộng hòa (không có vua) nhưng vẫn có tham vọng duy trì quyền lực (power) toàn diện như của một vị vua, đã bắt buộc phải lừa bịp dân chúng bằng cách xây dựng những cơ chế ban hành và áp dụng luật pháp (quốc hội và tòa án) cùng những bản hiến pháp và các đạo luật chỉ có tính dân chủ giả hiệu. Những cơ quan lập pháp và tư pháp ở những quốc gia đó hoặc không có tính cách độc lập và bình đẳng với hành pháp (các quốc gia cộng sản), hoặc chỉ độc lập một cách hình thức (các quốc gia phát xít và không ít các quốc gia chậm tiến hiện nay). Những bản hiến pháp và những đạo luật của những quốc gia đó không đáp ứng những điều kiện của nguyên tắc Rule of law như được trình bày ở trên. Dưới những chế độ giả hiệu dân chủ, đa số ngôn từ trong hiến pháp và những đạo luật đều tương tự như những bản hiến pháp và luật pháp của các quốc gia dân chủ. Nhưng sẽ có vài từ hay cụm từ hay vài điều khoản có vẻ bình thường như những điều khoản khác nhưng lại có hiệu quả loại bỏ hoàn toàn tính chất dân chủ của bản văn luật pháp đó. Ví dụ điều 4 của Hiến Pháp ViệtNamhiện nay và một số điều khoản khác nữa. Hoặc cơ quan soạn thảo hiến pháp hay luật (quốc hội) và những cơ quan có nhiệm vụ giải thích và áp dụng các luật lệ đó (tòa án) bề ngoài cũng có vẻ được hình thành và sinh hoạt dân chủ như các cơ quan tương tự ở các quốc gia dân chủ, nhưng trong thực tế, các cơ quan lập pháp và tư pháp ở các quốc gia độc tài đều hoàn toàn bị điều khiển bởi kẻ hay nhóm cầm quyền và phục vụ quyền lợi của nhóm cầm quyền. Ví dụ tình trạng quốc hội và tòa án hiện nay ở ViệtNam. Nói chung, các quốc gia phát xít (Đức, Ý, Nhật hay Tây Ban Nha thời Franco) hay các quốc gia chậm tiến hiện nay, hoặc các quốc gia cộng sản đều có hình thức dân chủ giả hiệu như vậy. Khi nghiên cứu hệ thống pháp lý tại các quốc gia dân chủ giả hiệu này, các luật gia phương tây đã tạo ra cụm từ Rule by law.
Chính những học giả phương tây cũng công nhận hai cụm từ Rule of law và Rule by law đã tạo ra nhầm lẫn vì bề ngoài có vẻ tương tự về từ vựng. Rule by law hoàn toàn khác và đối nghịch với Rule of law. Kẻ cầm quyền cai trị bằng nguyên tắc rule by law không phải vì luật pháp cao hơn họ mà vì làm như thế có lợi cho họ. Với rule of law, luật pháp ở tầng cao hơn và kẻ cầm quyền phải tuân thủ; còn trong chế độ rule by law, kẻ cầm quyền dùng luật pháp như một phương tiện có lợi nhất cho họ để thống trị (http://branemrys.blogspot.com/2005/08/rule-of-law-vs-rule-by-law.html).
Nói cách khác, trong chế độ Rule of law thì luật pháp là vua còn trong chế độ Rule by law thì kẻ cầm quyền là vua, đứng trên luật pháp. Trong chế độ Rule of law luật pháp dùng để bảo vệ dân chúng, mang lại phúc lợi cho dân chúng, chống lại sự lạm quyền (abuse power) của kẻ hay nhóm cầm quyền. Trong chế độ Rule by law, luật pháp được tạo ra và được giải thích, theo ý muốn của kẻ cầm quyền nhằm phục vụ đặc quyền, đặc lợi của kẻ hay nhóm cầm quyến. ViệtNamhiện nay đang ở tình trạng Rule by law chứ không phải Pháp Quyền (Rule of law).
Bài này chủ yếu chỉ nhằm làm rõ nghĩa và sự khác biệt giữa hai cụm từ Rule of law và Rule by law mà nhu cầu cải tổ Hiến Pháp hiện nay khiến các giới luật học, giới lãnh đạo chính trị và một thành phần dân chúng ở Việt Nam quan tâm.
Như đã trình bày ở trên, theo Giáo Sư Vũ Quốc Thúc, một trong những giáo sư luật hàng đầu của Việt Nam Cộng Hòa và cũng từng là Giáo Sư tại một đại học Luật bên Pháp đã cho biết, trước 1975 miền nam không có từ ngữ Pháp Quyền mà chỉ có cụm từ “Nguyên Tắc Thượng Tôn Luật Pháp” để dịch cụm từ Rule of law. Luật Sư Nguyễn Tường Bá, từng là Thủ Lãnh Luật Sư Đoàn của Việt Nam Cộng Hòa cũng mới nhắc tôi nhớ rằng, Giáo Sư Vũ Văn Mẫu, một trong những Giáo sư hàng đầu khác của Việt Nam Cộng Hòa mà tôi cũng từng là học trò trực tiếp của ông, đã dùng từ Pháp Trị để dịch cụm từ Rule by law nhằm nói tới phái Pháp Gia (School of Legalism) của Hàn Phi Tử ở Trung Hoa vào tk 3 trước công nguyên.
Khi dịch sang tiếng Việt, phương pháp dịch từng chữ (mot à mot) đã mang theo tất cả sự lẫn lộn có sẵn của hai nhóm từ Rule of law và Rule by law. Thật khó phân biệt sự khác nhau, đối chọi nhau của hai từ Pháp Quyền và Pháp Trị khi dịch Rule of law là Pháp Quyền và Rule by law là Pháp Trị. Cả hai cụm từ Pháp Quyền và Pháp Trị trong tiếng Việt đều có ý nghĩa tích cực về mặt từ vựng, tức đều mang cho người đọc cảm giác một môi trường dân chủ. Trong khi trong tiếng Anh, Rule of law có ý nghĩa tích cực, có tính dân chủ; trái lại Rule by law có ý nghĩa tiêu cực, độc tài, hay dân chủ giả hiệu.
Hiện nay, tại Việt Nam, cả hai từ Pháp Quyền và Pháp Trị đều được xử dụng rộng rãi, nhưng ngay cả người dùng nhiều khi, có thể nói rất nhiều khi, cũng không nắm trọn ý nghĩa của từ ngữ. Giới luật gia và trí thức tranh đấu cho nhân quyền và cho một Việt Nam dân chủ, khi dùng từ Pháp Quyền hay Pháp Trị đều muốn nhắc tới nội dung của cụm từ Rule of law. Điều này là dĩ nhiên, bởi vì Rule of law là nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ. Trong khi giới lãnh đạo chính trị, giới lãnh đạo đảng hay chính phủ, hoặc do ngu dốt, hoặc chủ ý lừa bịp dân chúng, luôn rêu rao muốn xây dựng chế độ Pháp Quyền (Rule of law) nhưng lại ủng hộ những hạn chế của luật pháp và chống đối một sự độc lập cần thiết của quốc hội và tòa án với hành pháp và nhất định đòi duy trì sự độc quyền lãnh đạo của đảng. Như thế là muốn áp dụng Rule by law.
Để tránh tình trạng nhập nhằng, cản trở tiến trình và nhu cầu cải tổ Hiến Pháp theo chiều hướng dân chủ thực sự, giới học thuật tư pháp ở Việt Nam, mà cụ thể là các tiến sĩ, giáo sư, viện sĩ lãnh đạo và giảng dậy tại các trường đại học luật, lãnh đạo các cơ quan tư pháp, tòa án, phải đưa ra một định nghĩa rõ ràng cho các từ vựng Pháp Quyền và Pháp Trị. Cách tốt nhất, vì Rule of law và Rule by law là hai khái niệm cơ bản của học lý phương tây, sau mỗi khi dùng từ vựng Pháp Quyền hay Pháp Trị, người sử dụng nên chua thêm tiếng Anh (hay tiếng Pháp) để nói rõ nội dung của từ vựng mình sử dụng. Trong khi hệ thống tư pháp và pháp luật của ta còn non trẻ, các từ vựng pháp lý chuyên môn chưa có đủ và chưa rõ ràng, chúng ta không nên e sợ bị “mất chủ quyền ngôn ngữ” qua việc chua thêm ngoại ngữ mỗi khi xử dụng một từ chuyên môn pháp lý tiếng Việt. Trái lại, việc chua thêm ngoại ngữ như vậy trên thực tế sẽ giúp chúng ta diễn tả được điều muốn nói và thực hiện đúng điều chúng ta muốn làm. Theo cá nhân tôi, thay vì dùng từ Pháp Quyền thì cụm từ “Thượng Tôn Luật Pháp” là chính xác nhất và dễ hiểu nhất để diễn tả ý nghĩa của cụm từ Rule of law. Đồng thời để tránh việc nhà cầm quyền lừa dối nhân dân, cụm từ Rule by law nên được dịch là “Giả Pháp Quyền”.
Một sự rõ ràng, phân biệt trong dịch thuật sẽ mang lại tính rõ ràng cho hệ thống tư pháp và pháp luật của Việt Nam, một trong mấy yếu tố căn bản của chế độ Thượng Tôn Luật Pháp, tức Rule of law; đồng thời sẽ buộc giới cầm quyền CSVN phải hoặc chấp nhận xây dựng một nhà nước Pháp Quyền thực sự như họ đang rêu rao, tức phải tôn trọng hoàn toàn những yếu tố căn bản của nguyên tắc Rule of law; hoặc họ phải công nhận trước nhân dân là họ không chấp nhận dân chủ và cai trị bằng chế độ “Giả Pháp Quyền” (Rule by law) như họ đang thực hiện.
Luật gia Nguyễn Tường Tâm
California, USA – Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung ương đảng CSVN vừa hoàn tất 16 ngày “kiểm điểm tự phê bình và phê bình” từ 12/7 đến 7/8/2012, nhưng Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng chỉ đạo diễn cho đoàn kịch 18 người “xưng tội” với nhau.
Theo tin chính thức, các bản kiểm điểm của 14 Ủy viên Bộ Chính trị (BCT) và 4 người thuộc Ban Bí thư (Ban này có 10 người nhưng 6 người cũng đồng thời là Ủy viên BCT) viết dài từ 10 đến 22 trang giấy, có người đã viết đi viết lại đến 3 hay 4 lần.
Tin này cũng nói tất cả mọi người đều phát biểu, ngắn nhất 30 phút và dài nhất là 2 giờ đồng hồ sau khi đã nghe Văn phòng Trung ương Đảng trình bày dự thảo Báo cáo kiểm điểm.
Nội dung kiểm điểm không được tiết lộ, nhưng tin của Báo điện tử Trung ương đảng viết:
“Tháng 9, Bộ Chính trị, Ban Bí thư sẽ họp thông qua Báo cáo kiểm điểm tự phê bình và phê bình của tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư; Bản tiếp thu giải trình…, đánh giá chính thức về kết quả kiểm điểm, xem xét việc kỷ luật (có hay không, đến mức nào đối với tập thể và cá nhân) để báo cáo với Trung ương.”
Nhưng cũng chưa chắc Báo cáo kiểm thảo lịch sử này sẽ được công bố đến toàn dân.
Tuy nhiên đây là đợt kiểm điểm chi tiết và quan trọng đầu tiên trong lịch sử 82 năm của đảng CSVN đã do Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung ương thực hiện.
Mục đích của việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình lần này là nhằm làm gương cho đảng viên, nhất là những người có chức có quyền, trong quyết tâm thi hành Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI phổ biến ngày 16/1 (2012) nói về “Một số nội dung cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.
Đấy cũng là lý do Nguyễn Phú Trọng đã triệu tập Hội nghị cán bộ toàn quốc để “hướng dẫn việc tiến hành kiểm điểm, tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết T.Ư 4 (khóa XI) về xây dựng Ðảng.”
Trọng nói: “Mục đích của hội nghị là trao đổi kinh nghiệm bước đầu đã đạt được trong quá trình chuẩn bị và các bước tiến hành kiểm điểm tự phê bình và phê bình của tập thể và cá nhân Bộ Chính trị, Ban Bí thư thực hiện Nghị quyết T.Ư 4 về xây dựng Ðảng để các tỉnh ủy, thành ủy và tương đương nghiên cứu, triển khai thực hiện theo đúng Chỉ thị, Kế hoạch của Bộ Chính trị về triển khai thực hiện nghị quyết đặc biệt quan trọng này.”
Tại sao?
Bởi vì đảng CSVN bây giờ đã mất hết tín nhiệm trong nhân dân. Điều được gọi là mối liện hệ “máu thịt”giữa dân và đảng không còn nữa.
Ở nhiều nơi, đảng đã biến thành “kẻ thù của dân” và dân đã bị Nhà nước coi là “lực lượng thù địch của đảng”. Những vụ Nhà nước dùng Công an, Cảnh sát và thuê mướn cả Côn đồ, lực lượng Xã hội đen họat động ngòai vòng pháp luật để đàn áp dân trong việc cưỡng chế đất đai như ở Tiên Lãng (Hải Phòng),Văn Giang (Hưng Yên) và Vụ Bản (Nam Định) cho thấy giữa dân và nhà nước không còn có thể sống chung với nhau nữa.
Những vụ khiếu kiện đông người kéo về Trung ương, đến các Trụ sở đảng, Chính quyền địa phương đòi đền bù, chống bất công xã hội nổi lên khắp nơi là một bằng chứng đảng đã xa dân.
Tình hình đen tối đến độ đã có người dân phải xả thân tự thiêu cho đến chết như trường hợp Bà Đặng Thị Kim Liêng, mẹ nhà báo tự do đang bị giam Tạ Phong Tần, qua đời ngày 30/7/2012 trước trụ sở Ủy ban Nhân dân tỉnh Bạc Liêu, vì không chịu nổi áp bức và thường xuyên khủng bố tinh thần của chính quyền nữa!
Thêm vào đó là tình trạng “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” trong đảng nay đã đến mức có thể làm cho đảng tan khiến khóa đảng XI này phải làm mọi việc để cứu đảng.
Ủy viên Bộ Chính trị Ngô Xuân Dụ, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương nói: “Phương châm của đợt sinh hoạt này là phòng ngừa, ngăn chặn, trị bệnh cứu người, giúp nhau cùng tiến bộ, vì sự trong sạch, vững mạnh của tập thể và từng cá nhân trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư, vì sự nghiệp chung của Đảng. Kiểm điểm để mỗi đồng chí, cả tập thể mạnh thêm và toàn Đảng mạnh thêm. Không làm được thì coi như đợt kiểm điểm này không đạt mục tiêu yêu cầu đặt ra.” (Báo điện tử Đảng, 14/08/2012).
Vì vậy, khi thực hiện cuộc kiểm điểm phê bình, tự phê bình, Nguyễn Phú Trọng cũng nói rằng: “Toàn Đảng đang bước vào thời điểm rất thiêng liêng và hệ trọng, đang làm những công việc rất thiêng liêng và hệ trọng. Mỗi cán bộ, đảng viên có trách nhiệm rất lớn đối với đất nước, dân tộc, đối với Đảng, chính vì thế phải phát huy đầy đủ tinh thần trách nhiệm để làm tốt công việc này. Đây là thời điểm phải hết sức tỉnh táo, bình tĩnh, vững vàng, thể hiện cho được bản lĩnh, phẩm chất tốt đẹp của người cộng sản, của người đảng viên cộng sản chân chính của Đảng Cộng sản Việt Nam…”
Không ai biết chuyện Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung ương cho là “rất thiêng liêng và hệ trọng” có liên quan gì đến lằn ranh giữa “cái chết và sự sống” của đảng ra sao, nhưng chính Ban Chấp hành Trung ương đảng đã nói trong Nghị quyết 4 cuối năm 2011 rằng: “Bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ.”
Nghị quyết cũng nói rõ nguyên nhân vì đã có: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc…”
Vì vậy đảng phải tập trung làm 3 việc:
“Một là, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và của nhân dân đối với Đảng.
Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Ba là, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.”
Đó là lý do Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung ương phải kiểm điểm tự phê bình và phê bình riết ráo để làm gương, may ra có thể cứu nguy cho đảng khỏi tan rã.
Nhưng muốn thực hiện được Nghị quyết 4 thì ưu tiên phải chống được tham nhũng, trong đó vấn đề nan giải là phải giải quyết được tệ nạn “lợi ích nhóm”, tức quyền lợi của các phe phái trong nội bộ đảng, và phải quy rõ trách nhiệm và kỷ luật người đứng đầu có lỗi.
Chủ tịch Nhà nước Trương Tấn Sang đã nói rõ nếu không chống được tham nhũng trong nhiệm kỳ đảng XI này (đến năm 2016) thì coi như Nghị quyết 4 không thành công.
TỪ VINASHIN ĐẾN NGUYỄN TẤN DŨNG
Vì vậy mà không có gì ngạc nhiên khi kiểm điểm, Bộ Chính trị và Ban Bí thư đã thảo luận cả đến vấn đề làm ăn thua lỗ của các Doanh nghiệp Nhà nước, điển hình là Tập đoàn Tầu thủy Vinashin và Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines).
Vinashin, theo một nguồn tin có thẩm quyền ở Việt Nam cho người viết bài này (Tác gỉả) biết rằng, tổng số tiền thua lỗ và nợ phải trả của Vinashin đã đuợc tổng cộng gần 100,000 tỷ đồng (không phải 1,000 tỷ đồng như vẫn thường nghe nói).
Riêng Vinalines thì chỉ riêng năm 2011 đã thất thu khỏang 500 tỷ đồng. Tổng Thanh Tra Chính phủ Huỳnh Phong Tranh đã đề cập đến con số tiền thua lỗ của Vinalines là trên 300 ngàn tỷ đồng khi trả lời tại buổi họp thứ 10 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 22/08/2012.
Chủ tịch Vinalines là Dương Chí Dũng, khi bị phát giác làm ăn thua lỗ, đã bỏ trốn là đề tài đang gây tranh cãi ở Việt Nam giữa Quốc hội và Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang.
Nguyễn Tấn Dũng cũng đã yêu cầu Bộ Công An phải tìm bắt cho bằng được Dương Chí Dũng để tìm ra manh mối.
Nhưng người có trách nhiệm về chính trị lớn nhất trong hai vụ Vinashin và Vinalines, cũng như đối với vấn đề nhân sự và điều hành các Doanh nghiệp Nhà nước lại là Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng. Nhưng Nguyễn Tấn Dũng vẫn an vị vì Quốc hội không dám điều tra trách nhiệm của Thủ tướng khi Bộ Chính trị chưa “bật đèn xanh”!
Do đó, mọi người sẽ không ngạc nhiên nếu trong quyết định của Bộ Chính trị công bố vào tháng 9 tới đây sẽ có phần “phê bình” hay “nhận trách nhiệm” của Nguyễn Tấn Dũng trong kiểm điểm kết thúc ngày 07/08/2012.
Nhưng chuyện phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam là chuyện “nước chảy qua cầu”, nên Tổng Thanh Tra Chính phủ Huỳnh Phong Tranh đã nhìn nhận với Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 21/08/2012: “Cũng phải thẳng thắn thừa nhận rằng, công tác phòng chống tham nhũng chưa đạt yêu cầu. Tham nhũng vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, diễn ra ở nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành, gây bức xúc, bất bình trong xã hội; là thách thức lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.”
Như vậy thì có hy vọng gì Ban Chỉ đạo trung ương về phòng, chống tham nhũng, nay đã được chuyển từ Nguyễn Tấn Dũng sang Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng sẽ thay đổi được bộ mặt của đảng, sau đợt kiểm điềm tự phê bình và phê bình?
Vì vậy rất ít người ở Việt Nam tin đảng sẽ thành công. Quyền lợi của các phe phái trong đảng, hay “lợi ích nhóm”, bây giờ đã trương phình ra trong bất kỳ lĩnh vực nào có thể làm ra tiền, dù to hay bé.
Hơn nữa cuộc kiểm điểm, dù có nghiêm chỉnh và thành thật mấy chăng nữa cũng chỉ là việc của “đảng nói, đảng làm với nhau” theo phương thức “vừa đá bóng vừa thổi còi” thì làm nên cơm cháo gì?
Do đó, vấn đề đặt ra cho đảng CSVN bây giờ là họ đã “xưng tội với ai”, trong khi nhân dân không được quyền tham gia vào công tác phòng, chống tham nhũng và xây dựng, chỉnh đốn đảng?
Nếu lãnh đạo đảng chỉ “xưng tội với nhau” thì có ai bảo đảm họ sẽ không “chín bỏ làm mười” vì tình đồng chí, đồng đội với nhau?
Đảng có giỏi thì hãy làm ngược lại để cho dân thấy.
Phạm Trần
(08/012)
Từng cá nhân các ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư sẽ tiếp tục tự phê bình thật sự cầu thị, thành khẩn, nghiêm khắc với chính mình hơn nữa; bổ sung, hoàn thiện, nâng chất lượng bản tự kiểm điểm cá nhân của mình để báo cáo với Ban Chấp hành Trung ương, làm gương cho cấp dưới và làm kinh nghiệm cho các khóa sau.
Ủy ban Kiểm tra Trung ương khẩn trương tiến hành thẩm tra, xác minh, làm rõ một số vấn đề mà Bộ Chính trị giao, bảo đảm thật khách quan, đúng nguyên tắc, nghiêm túc, kết luận rõ ràng và báo cáo Bộ Chính trị; đồng thời Bộ Chính trị sẽ nghe Ban cán sự đảng Chính phủ báo cáo về kết quả thực hiện chủ trương cơ cấu lại Tập đoàn Vinashin và về vụ việc Vinalines theo ý kiến kết luận của Bộ Chính trị trong quá trình kiểm điểm.
Nguồn: VRNs
Washington Post - Ông Allen S. Weiner là giáo sư ngành luật thuộc Đại Học Stanford. Ông cũng là giám đốc của Chương Trình Luật Quốc Tế và So Sánh. Ông vừa đệ đơn lên Ủy Ban Điều Tra Liên Hiệp Quốc về Bắt Giữ Tùy Tiện, thách thức tính hợp pháp của việc bắt và giam 17 nhà hoạt động Việt Nam vào năm ngoái.
Dưới đây là bài viết của ông mới đăng trên một tờ báo lớn nhất tại Mỹ: Washington Post. Mới đây, 12 tổ chức Quốc tế có uy tín trên thế giới đã gửi thư cho TT Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu thả ngay lập tức và vô điều kiện 17 thanh niên Công giáo và Tin Lành bị bắt giữ từ năm ngoái.
———————–
Trải dài suốt năm ngoái, chính phủ Việt Nam đã bắt giữ các thành viên của một nhóm thân hữu những nhà hoạt động chính trị và xã hội. Những người bị giam giữ có liên kết với Dòng Chúa Cứu Thế tại Việt Nam. Điều này cũng phản ảnh nếp kỳ thị các thành phần tôn giáo tại nước này. 11 trong số những người đệ đơn bị cáo buộc là thành viên của Việt Tân, một đảng tranh đấu cho dân chủ của người Việt. Những người bị giam giữ đã phải chịu đủ loại vi phạm nhân quyền, kể cả những vi phạm các quyền căn bản về ngôn luận, hội họp, và lập hội. Hơn thế nữa, việc bắt và giam giữ những nhà hoạt động này cũng vi phạm các quyền của họ về tiến trình tố tụng đúng đáng và xét xử công bằng, được bảo đảm theo bản Công Ước Quốc Tế về các Quyền Dân Sự và Chính Trị cũng như các hiệp ước luật pháp quốc tế khác; vi phạm các tiêu chuẩn quốc tế bao gồm cả việc bắt mà không có trát tòa, và giam giữ dai dẳng trước ngày ra toà mà chẳng cần lập cáo trạng. Sau ngày bị bắt, những người này bị giam cách ly nhiều tháng trời. Một vài người bị kết án bằng các “buổi xử” mà họ không được phép có luật sư. Hiện nay, hầu hết các người đệ đơn đang mòn mỏi trong tù, không được giao tiếp gì với bên ngoài, không được biết tại sao họ bị bắt và giam giữ. Họ được giao tiếp rất hạn chế với thân nhân, và trong vài trường hợp, hoàn toàn không được liên lạc.
Đúng theo chiều hướng gia tăng vi phạm nhân quyền của chính phủ Việt Nam, các nhà hoạt động này bị bắt vì tội vi phạm các điều luật hình sự cấm “những hành vi nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”, “phá hoại đoàn kết quốc gia”, và tham gia “tuyên truyền chống Cộng Hoà XHCN Việt Nam”.
Tất cả những người bị bắt đều là các ký giả trên mạng, bloggers, hoặc là học viên của những khóa huấn luyện về dân báo. Họ viết blogs, ký các thỉnh nguyện thư và tham gia các hình thức phản đối bất bạo động về một số vấn đề, bao gồm cả các kêu gọi dân chủ đa đảng và chống các dự án khai thác bô-xít rộng lớn có thể tàn phá môi sinh vĩnh viễn và buộc dân cư trong vùng phải ra đi. Tóm tắt lại, họ chỉ liên hệ tới những hình thức bày tỏ chính trị hợp pháp.
Những hình thức bày tỏ chính trị như vậy được bảo vệ bởi các luật lệ quốc tế về nhân quyền và bởi Hiến pháp Việt Nam. Điều khoản 53 của Hiến pháp bảo đảm công dân “có quyền tham gia vào việc điều hành nhà nước và xã hội, tham gia vào các thảo luận về những vấn đề của cả nước hay của địa phương.” Điều khoản 69 của Hiến pháp Việt Nam xác nhận công dân “có quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí” và có “quyền hội họp, lập hội, và biểu tình theo đúng pháp luật”. Tuy nhiên, thay vì bảo vệ các quyền này, chính phủ Việt Nam lại dùng luật để ngăn cấm các quyền tự do căn bản về ngôn luận, hội họp, và lập hội.
Một thành tích đáng ghi nhận, [Ngoại trưởng] Clinton đã nêu các quan tâm về hồ sơ nhân quyền của Việt Nam trong chuyến viếng thăm gần đây, bao gồm cả việc giam giữ các nhà hoạt động, luật sư, bloggers, những người chỉ có tội đã bày tỏ ý kiến một cách ôn hòa. Bà nói: “Tôi biết có người sẽ tranh luận rằng để phát triển kinh tế thì cần phải đặt sự tăng trưởng kinh tế lên hàng đầu và lo chuyện cải sửa chính trị và dân chủ sau, nhưng đó là một tính toán thiển cận.”
Hoa Kỳ phải tiến xa hơn là chỉ bảo vệ bằng lời nói đối với nhân quyền tại Việt Nam. Đất nước [Hoa Kỳ] chúng ta không nên đóng góp vào cái “tính toán thiển cận” mà bà Clinton cảnh báo qua việc thắt chặt thêm quan hệ thương mãi mà không cùng lúc đòi buộc Việt Nam phải tôn trọng các ràng buộc quốc tế về nhân quyền. Các viên chức Hoa Kỳ nên đòi hỏi Việt Nam bắt đầu bằng việc thả các nhà hoạt động bị bắt năm ngoái và những người khác đã bị giam giữ chỉ vì muốn lên tiếng vì tương lai đất nước. Hoa Kỳ không nên khen thưởng Việt Nam qua việc đưa họ vào Hiệp Ước Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương trong khi chính phủ Hà Nội dùng hệ thống pháp luật để đàn áp đối lập và chà đạp nhân quyền.
Allen S. Weiner
VRNs
Như Nữ Vương Công Lý đã báo động việc cướp chiếm, đập phá nhằm cướp vĩnh viễn Tu viện kín Camêlô và Dòng Thánh Phaolô Hà Nội sau khi dừng 1 năm do bị phản đối dữ dội đã tiếp tục trở lại.
Bất chấp các văn thư phản đối, các văn thư được Dòng Thánh Phaolô, Tòa TGM Hà Nội đã gửi đi về tài sản của mình bị chiếm đoạt, nhà cầm quyền Hà Nội tiếp tục chính sách cướp chiếm, làm hủy hoại, xóa dấu vết nhằm thực hiện chính sách xóa bỏ tôn giáo tại Việt Nam.
Bất chấp các văn thư phản đối, các văn thư được Dòng Thánh Phaolô, Tòa TGM Hà Nội đã gửi đi về tài sản của mình bị chiếm đoạt, nhà cầm quyền Hà Nội tiếp tục chính sách cướp chiếm, làm hủy hoại, xóa dấu vết nhằm thực hiện chính sách xóa bỏ tôn giáo tại Việt Nam.
Trong bản thông báo xác nhận việc cướp chiếm trở lại Dòng Thánh Phaolô và Tu viện kín Camêlô tại 72 Nguyễn Thái Học, Hà Nội, nhà cầm quyền CSVN đã mập mờ nói rằng việc chiếm cướp trở lại này đã có sự “tôn trọng ý kiến của Tòa TGM Hà Nội”(?)
Nhưng trên thực tế, thay cho dự án là những ngôi nhà vuông vắn cao tầng mái bằng, thì nhà cầm quyền Hà Nội lại đã đưa ra một mô hình phối cảnh về việc xây những ngôi nhà cao tầng khác với kiến trúc mái nhọn nhằm đánh lừa cảm giác của nhân dân và giáo dân. Thực chất vẫn là việc chiếm, cướp tu viện và Dòng Thánh Phaolô không có gì thay đổi.
Trái ngược lại với những công trình của Giáo hội, Thánh giá luôn ở vị trí cao nhất, trân trọng nhất thì nay nhà cầm quyền CSVN đã dùng Thánh Giá làm sảnh phía trước và đằng sau là những khối nhà đồ sộ che lấp Thánh Giá vốn đã có xưa nay.
Báo chí CSVN đã đồng loạt loan tin nhằm tuyên truyền, dọa dẫm và xuyên tạc thực chất của việc chiếm cướp Tu viện Dòng Thánh Phaolô tại đây.
Nhưng điều giáo dân đang chờ đợi là những thông tin và phản ứng của Tòa TGM Hà Nội về vấn đề này như thế nào?
Chúng ta chưa rõ những gì Tòa TGM Hà Nội mà trách nhiệm trực tiếp là Tổng Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn đã thỏa thuận những điều gì và đã có những ý kiến gì ngoài một câu chung chung trong bản Thông báo của Tòa TGMHN như sau:
“Ngày 25 tháng 05 năm 2011, lúc 9:30 sáng, cha Alphongsô Phạm Hùng, Chưởng ấn, đại diện Tòa TGM Hà Nội, cha Giacôbê Nguyễn Văn Lý, quản hạt Chính Tòa, và các sơ Nguyễn Thị Vi, Nguyễn Thị Lai đại diện Dòng Thánh Phaolô đã tham dự cuộc họp với các đại diện cơ quan chính quyền liên hệ do Ban Tôn Giáo Thành Phố Hà Nội tổ chức. Trong buổi họp các đại diện đã trình bày những ý kiến của mình trong sự thẳng thắn, ôn hòa, và tôn trọng lẫn nhau”.
Chưa rõ sự tôn trọng lẫn nhau chỉ có ở cuộc họp này làm các vị thỏa mãn, hay có sự tôn trọng thật sự ở việc làm trên thực tế? Nếu có thì nó đã được thể hiện chỗ nào? Chỉ biết rằng Tu viện vẫn cứ ngang nhiên bị chiếm cướp và đập phá nhằm xóa dấu tích, thay đổi kết cấu, chức năng của nó vốn có từ cả trăm năm nay.
Giáo dân Hà Nội có quyền đòi hỏi Tòa TGM Hà Nội minh bạch thông tin về vụ việc này, vì đây là tài sản của Giáo hội công giáo Việt Nam chứ không phải của riêng bất cứ ai, dù đó là Tổng giám mục Chủ tịch HĐGMVN đi nữa.
Với tài sản của Giáo hội Công giáo, việc thỏa thuận, cho, nhượng, đổi chác, mua bán hay bất cứ lý do gì đều phải tuân thủ theo Bộ Giáo luật đã quy định.
Vì thế, việc đến nay khi nhà cầm quyền CSVN đã ra tay mà Tòa TGMHN vẫn án binh bất động là điều hết sức đáng ngờ, gây sự nghi kỵ không cần thiết trong Giáo dân.
Hi vọng Tòa TGM Hà Nội sẽ kịp thời có thông tin và hành động nhằm bảo vệ tài sản giáo hội, tính mạng giáo dân cũng như ngăn chặn mọi sự cướp chiếm của nhà cầm quyền CSVN vốn không từ bất cứ thủ đoạn nào nhằm tiêu diệt tôn giáo.
Ngày 25/8/2012
Nữ Vương Công Lý
Về việc: Vụ án hành chánh trung tâm mục vụ Mennonite quận 2 Sài gòn.
Thưa quí tôi tớ và con cái Chúa! vào lúc 8 giờ sáng ngày 30/08/2012 vụ án trung tâm mục vụ Mennonite tại tổ 79, khu phố 6 Phường An Khánh quận 2 Sài Gòn sẽ được đưa ra xét xử phúc thẩm tại Tòa án tp. HCM số 131 Nam Kỳ Khởi Nghĩa quận 1, Sài Gòn.
Sau gần 2 năm với nhiều lần hoãn xử, nay vụ án được đưa ra xét xử trở lại. Trung tâm mục vụ Mennnonite quận 2 rộng hơn 2169,7m2 bao gồm 2 lô đất. Dù Không có quyết định thu hồi đất theo luật định, đặc biệt lô đất 359,7 m2 không có quyết định thu hồi và không có quyết định cưỡng chế vẫn bị chính quyền quận 2 huy động lực lượng cưỡng chế tàn bạo trục xuất tất cả 7 gia đình Mennonite và toàn bộ sinh viên Mennonite cùng các tù nhân lương tâm đang điều trị bệnh tại phòng chăm sóc y tế của trung tâm mục vụ Mennonite, làm ảnh hưởng chết 1 tín hữu Mennonite. Toàn bộ cơ sở xử dụng cho đoàn Hướng đạo sinh, một thư viện với hàng chục ngàn cuốn sách, một phòng học, 1 phòng cầu nguyện, phòng y tế…tất cả bị san bằng và bỏ hoang hóa 2 năm nay, trong khi đó thì cư dân Tin Lành Mennonite tan lạc khắp nơi..
Tuy vậy chính quyền quận 2 đã không đền bù đúng chính sách pháp luật, từ bản xác nhận pháp lý số 2014 ngày 07/10/2009 của UB Phường An Khánh sai thực tế và chứng cứ nghiêm trọng làm căn cứ ra quyết định đền bù gây thiệt hại lớn gần như mất trắng cơ sở xinh đẹp và giá trị đã phục vụ cho lợi ích chân chính của cộng đồng Tin Lành riêng và dân chúng nói chung.
Được biết tổ 79, khu phố 6, phường An khánh, quận 2 nơi cơ sở giáo hội tọa lạc có đầy đủ các chứng cứ nằm ngoài ranh thu hồi đất thuộc quyết định 1997/QĐ-UB ngày 10/5/2002 của UBND.TP. HCM. Quyết định nầy là căn cứ pháp lý chính để chính quyền quận 2 cưỡng chế thu hồi hai cơ sở của cộng đồng Mennonite Sài Gòn.
Nay Giáo Hội Mennonite kính thông báo, mong quí cơ đốc nhân cầu nguyện cho chúng tôi, mong chính quyền sớm nhận ra sai sót của mình mà có hành động sửa sai đối với cộng đồng Mennonite Việt Nam.
BBT Vietmenchurch
Một vài hình ảnh sinh hoạt tại trung tâm mục vụ Mennonite quận 2 Sài gòn
Nguồn: Vietmenchurch.org
Trước những oan khuất của các thanh niên Công giáo bị đối xử bạo ngược, bắt giữ trái pháp luật nhằm tiêu diệt lòng yêu nước thương dân của họ, sáng nay 27/8/2012, hàng chục thân nhân của 17 thanh niên Công giáo đã xuống đường diễu hành đòi trả tự do cho con em họ là những người vô tội, là những người yêu nước
Đoàn có khoảng 30 người, tất cả mặc áo trắng sọc xanh, phía trước là biểu ngữ: Con tôi vô tội, anh tôi vô tội hoặc cháu tôi vô tội, bố tôi vô tội… Sau lưng là hình ảnh 17 thanh niên công giáo bị bắt bớ, giam cầm, khủng bố trái pháp luật với hàng chữ: Hãy trả tự do cho những người yêu nước.
Đoàn đã xếp hàng trật tự đi qua Phủ chủ tịch, Văn phòng Trung ương Đảng CSVN, đi đến văn phòng Trung Ương Đảng đưa đơn.
Thế nhưng, thay vì tiếp các ông chủ nhân dân, các đầy tớ đã xua một đoàn đầu trâu mặt ngựa kết hợp với công an ra bắt bớ, đàn áp bà con lên xe và chở đi.
Một số hình ảnh buổi tuần hành sáng nay 27/8/2012:
27/8/2012
Nữ Vương Công Lý
Tổ tiên người Việt có câu ”cháy nhà ra mặt chuột” cho nên khi chuyện nhà, việc nước gặp chuyện không hay ta mới biết ai là kẻ trung, người hiếu hoặc người nào dễ dàng chấp nhận số phận để được an thân, dù trong tay kẻ thù hay những kẻ phản bội. Bằng chứng này đã phản ảnh rất rõ trong cách ứng xử của đảng và nhà nước Cộng sản Việt Nam (CSVN) trước các hành động xâm phạm trắng trợn chủ quyền biển đảo Việt Nam của Trung Cộng từ sau khi Luật Biển ra đời ngày 21 tháng 06 năm 2012.
BẰNG CHỨNG BUÔNG XUÔI
Sau đây là những việc làm đã khiến nhân dân nghi ngờ về quyết tâm chống Trung Cộng để bảo vệ Tổ quốc của những người có trọng trách trong giới cầm quyền ở Việt Nam:
- Quân đội và Lực lượng Biên phòng Việt Nam không có bất cứ động thái bảo vệ chủ quyền nào, kể cả trong trường hợp ngư dân Việt Nam bị Trung Cộng tấn công, cướp của, đánh đập dã man hoặc dùng võ lực ngăn chận không cho đánh cá trong vùng biển Việt Nam.
- Để mặc cho các tầu đành cá Trung Cộng, nay đã lên tới 23,000 chiếc tự do xâm nhập và đánh bắt tự do trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, đặc biệt quanh vùng Hòang Sa, Vịnh Bắc bộ và Trường Sa.
- Không dám thi hành Pháp lệnh lực lượng cảnh sát biển Việt Nam ban hành ngày 26/01/2008 quy định quyền bảo vệ lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và nghiêm trị những vi phạm chủ quyền của Việt Nam theo pháp luật của Việt Nam và các điều ước quốc tế.
- Ngăn cấm không cho dân biểu tình chống Trung Cộng xâm lược.
- Khủng bố, đe dọa, hạch hỏi, điều tra, theo dõi ngày đêm những ai “có dự tính” xuống đường biểu lộ tinh thần yêu nước.
- Kể từ năm 2007, tăng cường theo dõi, ruồng bắt những người “đi biểu tình” chống chính sách bá quyền, bành trướng lãnh thổ của Bắc Kinh.
- Chỉ thị cho Báo-Đài của nhà nước chụp mũ người yêu nước phá rối trật tự, an ninh, mắc mưu các “thế lực thù địch” và “gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, kích động hằn thù dân tộc chia rẽ quan hệ Việt – Trung.” Thậm chí còn bịa đặt cả chuyện có kẻ “phát tiền cho người tham dự biểu tình”, dù không chứng minh được.
- Tuyên truyền ru ngủ người dân bằng luận điệu đầu hàng, buông trôi trách nhiệm với lời khuyên: “đã có đảng và nhà nước lo”.
- Bất lực trước các âm mưu phá họai kinh tế, đầu cơ, hàng lậu, xâm hại môi trường, khai thác Bauxite, quặng mỏ, qúy kim, súc vật, nông phẩm, hải sản,gỗ qúy trên khắp lãnh thổ.
- Cho Tầu thuê đất chiến lược dài hạn 50 năm trên vùng cao, ven biển, mở khu phố Tầu, xây thị tứ, gia cư.
- Để cho các khu “kinh tế Tầu” làm chủ trên lãnh thổ Việt Nam được tự do “phong tỏa” sự dòm ngó của người Việt và chính quyền Việt.
- Các cơ quan Lao động, Công đòan, Công an của Nhà nước từ trung ương về địa phương hòan toàn bất lực, hoặc để cho bị mua chuộc trong các vụ kiểm soát vi phạm lao động và bảo vệ quyền lợi của công nhân người Việt làm cho các công ty Tầu.
- Không kiểm soát nổi nạn người Tầu nhập cư bất hợp pháp; không nắm vững được số công nhân Tầu đội lốt chuyên viên đang có mặt ở Việt Nam. Nhà nước chỉ biết có từ 35 đến 40 ngàn “công nhân người nước ngòai” đang làm việc ở Việt Nam, nhưng báo chí Việt Nam, từ 2 năm trước, đã nêu ra con số 75 ngàn công nhân người Hoa làm việc cho các Công ty Tầu trên lãnh thổ Việt Nam.
- Không dám tố cáo các hành động xâm lược của Trung Cộng trước Liên Hiệp Quốc và các Tổ chức Quốc tế.
- Không tập trung các tài liệu và dữ kiện lịch sử về chủ quyền lãnh thổ và biển đảo để phổ biến trong nhân dân, đưa vào hệ thống giáo dục tòan quốc.
- Không có kế họach dịch ra tiếng nước ngòai các văn kiện lịch sử về chủ quyền lãnh thổ, đặc biệt về chủ quyền 2 quầbn đảo Hòang Sa và Trường sa, để phổ biến tới các nước có quan hệ ngọai giao với Việt Nam, các Tổ chức Quốc tế và Liên Hiệp Quốc để chống lại hệ thống tài liệu, bản đồ và sách báo tuyên truyền xuyên tạc của Trung Cộng.
- Tại sao, Tiến sỹ Sử học Nguyễn Nhã, người đã có công sưu tầm các dữ liệu lịch sử để bảo vệ vững chắc chủ quyền của Việt Nam trên 2 Quần đào Hoàngh Sa và Trường Sa phải lặn lội từ Việt Nam sang Mỹ để mưu tìm sự giúp đỡ dịch qua tiếng Anh (chưa chắc đã được) công trình nghiên cứu của ông để phổ biến cho cả Thế giới biết vể chủ quyền lãnh thổ, trong khi nhà nước lại để mất hàng ngàn tỷ bạc vào các dự án kinh tế không đem lại phúc lợi cho dân như trường hợp của Vinalines và Vinashin ?
Hãy nghe lời thở than của Tiến sỹ Nhã trong thư ông gửi từ Hoa Kỳ cho các bạn trẻ: “ Tháng 8 năm 2011, tôi cùng nhà cựu ngoại giao Dương Danh Dy nói chuỵên về Hoàng Sa & Trường Sa tại Trường Đại học Ngọai thương ở Hà Nội. Một nữ sinh viên đã phát biểu một câu: “Bất cứ ai vô cảm với Hoàng Sa & Truờng Sa đều có tội với tổ tông và dân tộc”, sau khi nghe tôi nói: “Bất cứ ai làm cho đất nước suy hèn đều có tội với tổ tông và dân tộc”. Tôi cũng đã từng nói: “Sự thật lịch sử chỉ có một. Lịch sử rất công bằng và nghiêm khắc với bất cứ ai kể cả nhà sử học”.
Ngày 16 tháng 6 năm 2012 tới, từ Việt Nam, mặc dù tuổi đã cao, tôi vẫn cố lặn lội đến Boston, chỉ cốt nói với các du học sinh tại Trường Đại học Harvard về sự thật lịch sử chủ quyền tại Hoàng Sa & Trường Sa, với ước mong các bạn du học sinh ở Trường Harvard giúp tôi hoàn chỉnh bản tiếng Anh hơn 500 trang hồ sơ tư liệu về chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa & Trường Sa, cùng giúp tôi đưa đến các thư viện có trong danh sách mà năm 1960, Headquarters, U.S. Pacific Broadcasting and Visual Activity AP0331 đã gửi tài liệu “Analysis on The Spratley – Paracel Islands Dispute”, no 010660.
Cuối thư, tiến sĩ Nguyễn Nhã viết:
“Không có cách nào khác, trước những nguy cơ chưa từng có tại biển Đông, các bạn trẻ Việt Nam không phân biệt chính kiến, hãy cùng nhau dẹp bỏ những gì “xấu xí” của người Việt Nam như quá ham những tư lợi, thiếu đoàn kết… mà phải có lòng yêu nước chân chính, có tâm, có tầm như người Nhật Bản để cùng nhau xây dựng nội lực đất nước hùng cường.
Mong vậy thay!” (Báo Dân trí, ngày15-06-2012).
Sự lạnh nhạt của giới cầm quyền Việt Nam trước công lao của Tiến sỹ Nhã có nên đặt ra một nghi vấn về lòng ái quốc và quyết tâm bảo vệ lãnh thổ của họ trước vong linh của Tổ tiên chăng ?
NỐI GIÁO CHO GIẶC?
Song song với thái độ đáng lên án này, nhà cầm quyền đã :
-Ngăn cấm không cho Câu Lạc Bộ Nguyễn Văn Bình ở Sài Gòn, thành lập năm 2006 bởi Đức cha Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Địa phận Vinh, Chủ tịch Ủy ban Công lý và Hòa Bình của Hội đồng Giám mục Việt Nam, tổ chức hội thảo về tình hình đất nước, đặc biệt về tình hình “dầu sôi lửa bỏng” ở Biển Đông.
Câu Lạc Bộ này chỉ tổ chức chung được một lần với Nhà xuất bản Tri Thức về đề tài “Biển Đông và hải đảo Việt Nam” ngày 24,25-07-2009. Sau đó chính quyền Cộng sản ở Thành phố Hồ Chí Minh đã cấm không cho tổ chức cuộc thảo luận lần 2 về đề tài “Công lý và Hòa bình trên Biển Đông” dự trù tổ chức vào ngày 17 tháng 09 năm 2011.
Bản Thông báo hủy bỏ của CLB đưa ra chiều ngày 16/09/2011 cho biết họ lấy làm tiếc rằng “Một cơ hội góp phần khẳng định chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông “ !
Tại sao đảng CSVN lại sợ hãi Trung Cộng đến thế ?
Họ cũng :
-Gạt bỏ ngòai tai những đề nghị và lời khuyên chí tình của nhiều Trí thức, Cựu Lão thành Cách mạng về các giải pháp đòan kết dân tộc trong – ngòai Việt Nam để chống ngọai xâm; đổi mới chính trị; thi hành nghiêm chỉnh các quyền tự do của dân ghi trong Hiến pháp; áp dụng triệt để luật lệ quốc gia đồi với sự thao túng, công khai phạm luật của người Hoa trên lãnh thổ Việt Nam để bảo vệ quyền làm chủ đất nước của người dân.
-Tiếp tục giấu kín những cam kết chính trị, lãnh thổ và kinh tế với Trung Cộng mà thực tế đã chứng minh bất lợi cho công cuộc đấu tranh bảo vệ sự vẹn tòan lãnh thổ cùa quốc gia, tiêu biểu nhất là Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ngày 14/09/1958 nhìn nhận chủ quyền của Trung Cộng trên hai quần đảo Hòang Sa và Trường Sa.
-Tiếp tục khờ khạo, hay bị áp lực từ Bắc Kinh để tin vào lời lẽ đường mật 16 chữ “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần 4 tốt “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” trong khi Trung Cộng tăng cường các hoạt động chiếm đóng các vị trí chiến lược ở biên giới và các vùng biển đảo của Việt Nam ở Biển Đông.
-Bác bỏ yêu cầu đình chỉ dự án khai thác Bauxite trên Tây Nguyên của trên 3,000 Trí thức, trong đó có cả Bà Nguyễn Thị Bình, Nguyên Phó Chủ tịch Nước vì ai cũng thấy chỉ có Tầu hưởng lợi trong việc khai thác vì chính Tầu đã thúc bách Lãnh đạo Việt Nam để được đặt chân vào vùng đất chiến lược Tây Nguyên mà ngay cả Đại Tướng Võ Nguyên Giáp cũng phản đối.
-Trong khi đó lại cố tình dung túng những hành động “phù Tầu”, “xuyên tạc lịch sử anh hùng Việt Nam” để bôi nhọ lịch sử đấu tranh của dân tộc; ngoảnh mặt làm ngơ những thiệt hại về người và của do quân Tầu gây ra cho nhân dân 6 Tỉnh biên giới cực bắc (Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hà Giang, Lào Cai và Lai Châu) trong cuộc chiến tranh biên giới năm 1979.
- Không nhớ là Quân Tầu đã chiếm cao điểm chiến lược quan trọng 1.502 (Tầu gọi là núi Lão Sơn) ở xã Thanh Thủy,huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang (tên cũ là Hà Tuyên), sau cuộc chiến biên giới lần 2 giữa hai nước năm 1984. Từ vị trí này, quân Tầu nhìn thấy hết các hoạt động bên dưới của Việt Nam.
Trong số những lãnh đạo đã nói những lời làm nhân dân bầm gan, tím ruột có cả Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đưa ra ngày 10/07/2012 tại Hà Nội về việc tăng cường “công tác tuyên truyền về tình hữu nghị truyền thống Việt-Trung bằng các hình thức đa dạng, phong phú, tổ chức các hoạt động tri ân các cá nhân, tổ chức, địa phương Trung Quốc từng giúp đỡ Việt Nam.”
Hay như trường hợp của hai Lãnh đạo Bộ Quốc phòng là Trung tướng Mai Quang Phấn, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND và Phùng Quang Thanh, Đại tướng, Bộ trưởng Quốc phòng tại Hà Nội hôm 28/07/2012.Hai người này cũng đã nói những câu nghe chói tai, làm đau lòng những thân nhân của trên 40,000 quân và dân đã bỏ mình trong cuộc chiến bảo vệ lãnh thổ chống Tầu năm 1979 và 64 binh sỹ đã hy sinh trong trận chiến chống quân Tầu xâm lăng Trường Sa năm 1988 khi Việt Nam linh đình tổ chức lễ “kỷ niệm 85 năm Ngày thành lập Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc (1-8-1927/1-8-2012)”.
Mai Quang Phấn nói trước mặt Khương Tái Đông, Đại biện lâm thời Đại sứ quán nước CHND Trung Hoa tại Việt Nam rằng : “Đây là dịp để chúng ta ôn lại những kỷ niệm sâu sắc, ghi nhớ những tình cảm quý báu, cao đẹp, sự giúp đỡ to lớn, chí nghĩa, chí tình có hiệu quả, mà Đảng, Nhà nước, nhân dân và Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc đã dành cho Đảng, Nhà nước, nhân dân và QĐND Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN ngày nay.”
Còn Phùng Quang Thanh lại tha thiết hơn: “Chúng tôi luôn trân trọng, ghi nhớ và mãi biết ơn sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa, to lớn có hiệu quả mà Đảng, Chính phủ, nhân dân và Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã dành cho Việt Nam”
BÁO-ĐÀI XUYÊN TẠC
Bên cạnh những hành động đầu hàng, đàn áp những người yêu nước nêu trên, đảng và nhà nước CSVN còn khuyến khích và dung dưỡng một số cơ quan báo-đài viết bài ru ngủ, xuyên tạc và bóp méo các nỗ lực bảo vệ chính nghĩa của nhân dân chống lại kế họach xâm lược của Trung Cộng đang ngày một lên cao ở Biển Đông và trên đất liền.
Bằng chứng như lời lẽ phun nọc độc của Báo Hà Nội Mới ngày 05/08/2012 đã xuyên tạc : “Những cuộc tụ tập, biểu tình, tuần hành tự phát đã gây ảnh hưởng xấu đến TTATXH (trật tự an ninh xã hội), đến hình ảnh Thủ đô Hà Nội – Thành phố vì hòa bình; tiềm ẩn các yếu tố gây mất ổn định chính trị; tác động tiêu cực tới việc thực hiện đường lối, quan hệ đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta.
Một bộ phận quần chúng do thiếu thông tin, ngộ nhận tham gia biểu tình tự phát là thể hiện tinh thần yêu nước, trong khi đó số đối tượng chống đối trong và ngoài nước đang ráo riết lợi dụng vấn đề trên để tiến hành các hoạt động chống Đảng, Nhà nước. Âm mưu, ý đồ của họ là chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, kích động hằn thù dân tộc chia rẽ quan hệ Việt – Trung, kích động, tập hợp lực lượng gây mất an ninh trật tự và ổn định chính trị đất nước.”
Tại sao những cuộc biểu tình có mang theo biểu ngữ xác nhận chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hòang Sa và Trường Sa, cũng như những lời hô “đả đảo Trung Quốc xâm lược” lại có “tiềm ẩn các yếu tố gây mất ổn định chính trị; tác động tiêu cực tới việc thực hiện đường lối, quan hệ đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta” ?
Nếu biết có “tiểm ẩn” thì hãy thẳng thắn nói ra cho mọi người biết xem cái “yếu tố” gây “mất ổn định chính trị” là cái gì, ở đâu và do ai chủ mưu để “chống đảng, nhà nước” ?
Ngọai trừ chỉ biết “ăn ốc nói mò” hay “vu vạ cáo oan” cho người lương thiện thôi chứ những biểu ngữ như thế này thì chỉ có những kẻ “nội gián, ăn cơm của Tầu” mới nói là “chia rẽ quan hệ Việt-Trung:“China, hands off” (Trung Quốc, hãy buông tay tham vọng), “Yêu cầu ông Hào, Phó Chủ tịch Tỉnh Hưng Yên Trực Tiếp Chỉ Huy Cưỡng chế Trung Quốc” (thách đố ông Nguyễn Khắc Hào, người có trách nhiệm trong vụ đàn áp cưỡng chế đất dân ở Văn Giang, Hưng Yên, ngày 24/04/2012); hay “Tổ quốc gọi chúng con có mặt vì bình yên xã tắc, sơn hà”, “Đả đảo Trung Quốc xâm lược”, “Xin đừng Vô Cảm”, hoặc “Hoàng Sa-Trường Sa của Việt Nam. NO-U ” (ám chỉ đường Lưỡi Bò mà Tầu tự vẽ, tự nhận là của mình ở Biển Đông).
Những người đi biểu tình, trong số có nhiều Trí thức như Bác sỹ Phạm Hồng Sơn, Cụ Bà Lê Hiền Đức, Nhà báo Nguyễn Thượng Long, Nhà văn Nguyễn Tường Thụy, hay trước đây như các Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, Nhà văn Nguyên Ngọc, Tiến sỹ Nguyễn Quang A, v.v… thì ai xúi giục được họ làm những điều trái đạo lý, chưa vội nói đến những hành vi “gây chia rẽ khối đại đòan kết tòan dân” như cái lưởi rắn Hổ Mang của báo Hà Nội Mới.
Cũng trong vụ này, những người làm báo đảng hãy đọc Đoan Trang, Phóng viên thường trú tại Hà Nội của Báo Pháp Luật Thành phố Hồ Chí Minh, người đã tham gia biểu tình chống Trung Cộng ngày 5-08-2012.
Cô viết : “Tôi viết bản tường trình này liên quan đến việc tôi đi biểu tình sáng 5-8 tại khu vực Bờ Hồ và bị bắt đưa về trại lưu trú Lộc Hà. Việc tôi đi biểu tình là hoàn toàn tự nguyện, không có bất kỳ ai rủ rê, lôi kéo, xúi giục, thúc ép….
“…Như tôi đã nói với cơ quan điều tra cũng như tại blog cá nhân của mình, việc người dân biểu tình ôn hòa chống những hành vi gây hấn, có tính chất bá quyền và ngày càng leo thang của Trung Quốc trên Biển Đông, là việc làm tốt, thể hiện lòng yêu nước, chính kiến của người dân, hình thành một mặt trận ngoại giao nhân dân, cùng với Nhà nước bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Một trong các lý lẽ mà cơ quan công an đưa ra để trấn áp hoạt động biểu tình là “sợ người dân bị các phần tử cơ hội chính trị, chống đối Nhà nước, lợi dụng kích động, xúi giục gây rối trật tự công cộng hoặc chống phá chính quyền”. Thiết nghĩ, nếu thực trong hàng ngũ người biểu tình có những thành phần cơ hội chính trị như thế, thì cơ quan an ninh, công an có thể xử lý họ, nếu xác định được họ có hành vi vi phạm pháp luật. Chứ không thể gộp tất cả những người biểu tình vào một “rọ” để trấn áp tuốt, theo cái lối tư duy “không quản được thì cấm”, chỉ vì một khía cạnh nào đó rất nhỏ mà chụp mũ, bôi nhọ một mục đích tốt đẹp của hoạt động biểu tình.”
VỤNG VỀ ẤU TRĨ
Hành động “chụp mũ” và “xuyên tạc sự thật” của báo đảng viết theo lệnh của cơ quan chủ qủan tờ báo hay đài theo lệnh từ Ban Tuyên giáo của đảng là điều không mới.
Nhưng cách thông tin, tuyên truyền từ cuộc biểu tình ngày 05/08/2012 lại lộ ra một cách vụng về và ấu trĩ của đài Truyền hình Hà Nội.
Trong bản tin buổi trưa ngày 05/08 đài này nói như rồng gặp nước rằng: “Đáng chú ý là trong cuộc tụ tập sáng nay, quần chúng nhân dân và lực lượng an ninh đã phát hiện và bắt quả tang một số đối tượng đang phát trả tiền công cho những người biểu tình”.
Đài này còn tố cáo “Bộ mặt thật cái gọi là biểu tình yêu nước đã bị lộ tẩy”, và hứa sẽ có thêm chi tiết và bằng chứng trong bản tin buổi chiếu lúc 18:30 (6 giờ 30 chiều) cùng ngày.
Tuy nhiên, trong bản tin sau đó lúc 18:30 lại không hề cung cấp thêm bằng chứng về việc này. Đài này cũng “tự ý cho quên luôn” những điều mình nói trước đó.
Sự việc không có mà tự ý vu oan cáo vạ cho người đi biểu tình là hành động phỉ báng và bội nhọ nhân dân
Ngòai ra, việc nhà cầm quyến ở Hà Nội đã huy động cả ngàn công an, dân phòng đi bắt người dân yêu nước biểu tình ngày 05/08/2012 rồi đưa họ về Trung tâm lưu trú Lộc Hà (tên gọi cũ là Trại phục hồi nhân phẩm Lộc Hà) để điều tra ai đã tổ chức xuống đường và với mục đích gì là hành động chỉ làm cho người dân kiên quyết hơn.
Hơn nữa việc chọn một trại “phục hồi nhân phẩm” để điều tra hành động của những người yêu nước là nhà nước đã tự mình hạ thấp nhân phẩm của mình.
Trường hợp này cũng giống như luận điệu của Báo Cựu Chiến Binh khi từ bỏ nhiệm vụ hàng đầu của tổ chức của những người cựu Bộ đội là nuôi dưỡng tinh thần “vì nước quên mình” cho Quân đội Nhân dân, nơi đang có con, cháu họ phục vụ để bảo vệ Tổ quốc.
Thái độ này đã phản ảnh trong Bài bình luận ngày 19/07/2012 của tờ báo khi họ cũng “tát nước theo mưa” cùng với báo chính thống chống người dân đi biểu tình chống Trung Cộng.
Bài báo viết: “Nhìn bề ngoài thì dường như những hoạt động đó thể hiện lòng yêu nước nhưng thực chất bên trong là mưu đồ chính trị không thể xem thường. Ban đầu, những hoạt động tụ tập, tuần hành của một số người dân mang tính tự phát nhưng sau đó đã xuất hiện sự kích động, lợi dụng hưởng ứng tuần hành, biểu tình thành các hoạt động có tổ chức, gây rối trật tự công cộng, có biểu hiện chống chế độ với những hành vi phản đối chính quyền của một số người bất mãn lâu nay vẫn tìm cách chống chính quyền, chống đối chế độ.”
Bài bình luận vu vạ rằng: “Bản chất của cuộc tụ tập, tuần hành đã thay đổi hẳn, trở thành chống đối chế độ, chống đối Đảng, Nhà nước. Bên cạnh đó, một số trang mạng xã hội trong nước cũng như ngoài nước liên tục kêu gọi tham gia tuần hành, biểu tình, làm mất trật tự an ninh xã hội mà ẩn chứa đằng sau nó là sự tập dượt tập hợp lực lượng gây mất ổn định về đời sống chính trị nước ta. Thực chất, đây là những ngón đòn không mới của chiến lược “diễn biến hòa bình”, là những “kinh nghiệm” của các cuộc cách mạng màu sắc ở nhiều quốc gia trên thế giới trong thời gian qua mà các thế lực thù địch đang mưu toan áp dụng ở Việt Nam.
Cuối củng bài viết kêu gọi: “Sự tỉnh táo của mỗi người, nhất là của các Cựu Chiến Binh chúng ta trong bối cảnh hiện nay là rất cần thiết. Mỗi người dân cần nắm chắc các nguyên tắc pháp lý của Việt Nam cũng như quốc tế về lãnh thổ, lãnh hải; hiểu rõ lịch sử đất nước qua các thời kỳ và nắm chắc các diễn biến tình hình thời sự liên quan đến lãnh thổ, lãnh hải đất nước để có các hành động chuẩn mực, thể hiện lòng yêu nước trong mỗi công việc của mình, theo đúng các quy định pháp luật, theo sự chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
Thể hiện lòng yêu nước không phải là hành động làm rối trật tự xã hội, đừng biến một hành động mang ý nghĩa cao cả thành một hành động phản cách mạng do các thế lực thù địch giật dây.”
Lập luận của báo Cựu Chiến Binh và các báo của đảng đã bị người dân trong nước thẳng thắn phê bình nói suông, và họ yêu cầu nhà nước phải có hành động cụ thể để bảo vệ chủ quyền.
DÂN LÊN TIẾNG
Trước thái độ “bình chân như vại” của chính quyền và của báo đảng, nhiều người dân trong nước đã khuyến cáo đã đến lúc phải có biện pháp mạnh với các tầu đánh cá Trung Cộng xâm phạm hải phận Việt Nam.
Ý kiến của người dân đã được Báo Thanh Niên phản ảnh trong số ra ngày 07/08/2012 như sau:
Độc giả Nguyễn Văn Trực nói: “Tôi cho rằng cùng với việc dứt khóat trong việc bắt giữ tàu Trung Quốc xâm lược chủ quyền biển, đảo của ta, ta phải lên tiếng mạnh mẽ và công khai trên các diễn đàn Quốc Tế nhất là tại Đại Hội Đồng LHQ và Hội Đồng Bảo An. Chúng ta cần lên án mạnh mẽ hành động xâm lược của Trung Quốc tại các diễn đàn Quốc Tế như thế này. Có như thế thế giới mới thấy bộ mặt thật của TQ. Chứ cứ ngồi nhà mà “chửi thầm” thì chả có ý nghĩa gì. Nhà ta đang cháy thì phải hô to lên cho cả làng nghe thấy họ mới tới chữa được.”
Đỗ xuân Vinh phát biểu từ Hà Nội : “Đúng là không chỉ phản đối mà chúng ta phải có hành động quyết liệt để thực hiện quyền chủ quyền, quyền tài phán trên vùng lãnh hải VN dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế và luật biển của VN, cảnh sát biển hãy thực thi nhiệm vụ bất kỳ ai vi phạm chủ quyền vùng biển thì phải bắt giữ để xử lý theo pháp luật VN.”
Từ Hải Phòng, độc guiả Thế Phong góp ý: “Người dân Việt Nam chúng ta luôn yêu hoà bình nhưng không co nghĩa là chúng ta có thể để cho các thế lực bên ngoài chà đạp lên như vậy. Nếu không ngay bây giờ ta không hành động cứng rắn hơn mà chỉ với các khẩu hiệu yêu cầu, đề nghị… thì một ngày nào đó Việt Nam chúng ta sẽ chẳng còn chủ quyền. Gậy tre mà ông cha ta còn thắng bom đạn hiện đại thì chẳng có lý do gì mà lúc này ta phải e sợ: “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”.
Trong khi đo, độc giả tên Sơn ở Qủang Trị nói: “Tôi thấy Ngư dân chúng ta thì bị chúng bắt, nộp phạt lên đến tiền tỉ. Vậy mà khi chúng ngang nhiên làm bậy trên lãnh địa của chúng ta thì chúng ta chẵng có động thái gì ngoài mấy tờ báo rêu rao phản đối. Chúng ta cần phải có các động thái mạnh để đẩy lùi âm mưu xâm lược của chúng.”
Bạch Ngọc Miện cũng lên tiếng từ Thị xã Phú Thọ : “Không phải bàn bạc gì nữa. Phải bắt giữ ngay kẻ nào xâm phạm chủ quyền của nước ta. Âm mưu của chúng , ta đã rõ. Phải đập tan âm mưu đen tối của kẻ xâm lược. Trong thời gian gần đây Trung Quốc đã có nhiều biểu hiện….. lấy thịt để đè người – họ liên kết với nhau để xâm phạm chủ quyền nước ta như vậy thì chúng ta phải kiên quyết ngăn chặn chứ không thể nói suông được.”
Độc gỉa Quân Tử nói thẳng với nhà nước: “Nói phải đi đôi với làm. Đã ra luật Biển thì phải làm cho thật nghiêm thì mới gọi là luật.”
Hoài Uyên cũng bức súc : “Mình làm theo luật chứ có làm xằng làm bậy gì đâu mà sao chính quyền cứ e dè mãi vậy. Phải làm cho chúng hết mơ tưởng sang đất nhà mình chứ.”
Ý kiến của Thanh Tùng từ Sài Gòn cũng thẳng thắn: “Hãy đập tan âm mưu của bọn cướp trước khi chúng hành động xâm chiếm. Nên bắt hết những tàu cá của chúng khi vào vùng biển của Việt Nam.”
BÀI HỌC SÁNG MẮT
Ngòai hành động xâm lược trên đất liền, qua “Hiệp ước biên giới trên đất liền”, được hai nước Việt-Trung ký ngày 30 tháng 12 năm 1999, Trung Cộng còn không tôn trọng “Hiệp định về phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước trong vịnh Bắc Bộ” và “Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ” mà hai bên đã ký ngày 25/12/2000 khi ngang nhiên gửi 23,000 tầu đánh cá xâm nhập Vịnh Bắc bộ, khu vực biển Hòang Sa và Trường Sa của Việt Nam từ ngày 01/08/2012.
Trên mặt trận báo chí, tuyên truyền, phiá Trung Cộng đã cho phổ biến nhiều bài viết và thảo luận trên Truyền hình kêu gọi quân đội tiến chiếm hết các đảo của Việt Nam trên Biển Đông.
Theo tiết lộ của Giáo sư Vũ Cao Đàm ở trong nước thì từ năm 2010, báo mạng “Trung Quốc Binh khí Đại toàn” của Đảng Trung Cộng đã công khai mạt sát, đe dọa nhân dân Việt Nam bằng những lời hung hãn, hạ cấp và “sặc mùi hiếu chiến của bọn thảo khấu trong cái Đảng Cộng sản Đại Hán đang phát xít hóa còn hung hãn khát máu hơn cả Hitler và Mussolini.”
Bài báo của Tầu mang tên: “Giết bọn giặc Việt để làm lễ tế cờ Nam Sa (Sát Việt khấu vi Nam Sa chi chiến tế kỳ – Nam Sa tức Trường Sa của Việt Nam) được Giáo sư Vũ Cao Đàm dịch đăng trên báo mạng Bauxite Việt Nam phổ biến lần thứ nhất ngày 14-5-2010.
Giáo sư Vũ Cao Đàm đã yêu cầu Bauxite Việt Nam phổ biến lần hai vào ngày 02/08/2012 sau khi ông nghe được những lời nói chói tai “biết ơn” các “đồng chí” Trung Cộng của một số viên chức Việt Nam như đã đề cập đến 3 trường hợp của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân, Trung tướng Mai Quang Phấn, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND và Phùng Quang Thanh, Đại tướng, Bộ trưởng Quốc phòng.
Vị Giáo sư uyên thâm chữ Hán giải thích tại sao ông đã làm việc này : “Thế rồi tôi đặt câu hỏi: Vì sao cái mà một số kẻ được gọi là “đảng anh em” lại đi rao giảng cái bài “Giết giặc Việt”? Vì sao chúng gọi nhân dân “anh em” là “Giặc”? Nhưng đau hơn, là vì sao mà một số người vẫn tâng bốc chúng là “ân nhân”, lại vuốt ve chúng là “anh em đồng chí”? Họ “khôn khéo”, hay họ “mơ ngủ”. Họ có biết rằng nhân dân sẽ hiểu là họ cố tình nhắc nhở nhân dân ta phải biết ơn, tệ hơn nữa phải cúi đầu thần phục cái bọn sơn lâm thảo khấu đó? Và hậu quả là nhân dân sẽ nghĩ gì về họ, nhất là khi họ không chỉ dừng lại ở những lời biết ơn các “đồng chí” thảo khấu sơn lâm, thẳng tay đàn áp những người biểu tình chống Trung Cộng xâm lược, gọi những người yêu nước là “thế lực thù địch”, thậm chí đánh đập, hành hạ, và thẳng chân đạp vào mặt những người yêu nước… Họ có nghĩ sẽ đến một ngày nào đó tái xuất hiện một pho sách “Đại Nam thực lục chính biên hiện đại” – mà chắc chắn là thế –, ghi chép hay nói đúng hơn là đóng đinh những sự kiện này vào trong sử sách? Họ sẽ giải thích thế nào với các thế hệ con cháu mai sau?” (Bauxite Việt Nam, 02/08/2012)
Giáo sư Vũ Cao Đàm khẳng khái nói với những người này: “Tôi muốn khẳng định rằng: Chúng ta không cần phải biết ơn bọn Trung Cộng. Trung Cộng không xứng đáng để chúng ta biết ơn. Trung Cộng không đủ tư cách để người Việt Nam biết ơn. Chính Trung Cộng phải biết ơn nhân dân Việt Nam, vì đã có hàng triệu người con của cả hai phía Việt Nam ngã xuống để tạo một vành đai chắn cho Trung Cộng và phe XHCN được yên hàn xây dựng cuộc sống hòa bình. Cái phe XHCN được bảo vệ đó ngày nay đã sụp đổ, Trung Cộng đang trên đường phát xít hóa. Cái “trách nhiệm trước thời đại” thuở xưa cũng đã đi vào quá vãng.”
Tiếng nói gang thép này của Giáo sự Vũ Cao Đàm và những phát biểu khẳng khái quyết không đầu hàng giặc của những người dân đi biểu tình chống Tầu xâm lược, và trên báo Thanh Niên đã đủ rót vào tai Lãnh đạo đảng và Nhà nước CSVN chưa, hay đợi cho đến khi giặc vào nhà bắt qùy gối, còng tay đem đi thì họ mới tỉnh ngủ ?
Phạm Trần
Nguồn: Vietthuc