Biểu tình chống TQ tại Hà Nội hôm 05/06/2011 |
Cách đây tròn một năm, vào chủ nhật ngày 5/6 năm ngoái, nhiều người dân tại hai thành phố Hà Nội và Sài Gòn đã đồng loạt xuống đường biểu tình chống việc TQ gây hấn tại khu vực Biển Đông thuộc chủ quyền VN.
Gia Minh ghi nhận cảm nghĩ của một vài người tham gia hoạt động đó sau một năm nhìn lại.
Bày tỏ lòng yêu nước
Tại Hà Nội có được hơn chục cuộc biểu tình vào các chủ nhật kề từ ngày 5 tháng 6, còn ở Sài Gòn sau cuộc biểu tình đầu tiên được cho là đầy khí thế với cả ngàn người tham dự thì hầu như chỉ thêm một cuộc nữa mà thôi, còn tất cả những tuần tiếp theo đều bị lực lượng an ninh chặn đứng.
Luật gia Lê Hiếu Đằng, từng tham gia trong phong trào sinh viên tranh đấu trước năm 1975 và nguyên phó chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh, một người có mặt trong cuộc biểu tình đầu tiên ở Sài Gòn nhớ lại những kỷ niệm trong ngày 5 tháng 6 ở khu vực trung tâm thành phố:
Đó cũng là thái độ để khuyến cáo Nhà nước Việt Nam phải có những biện pháp mạnh mẽ để bảo vệ ngư dân Việt Nam, và bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.Ô. Lê Hiếu Đằng
“Có thể nói đó là một dấu mốc rất lớn để khẳng định thái độ của người dân Thành phố đối với hành động ngang ngược, hà hiếp ngư dân Việt Nam đang đánh bắt trên ngư trường truyền thống của mình. Và đó cũng là thái độ để khuyến cáo Nhà nước Việt Nam phải có những biện pháp mạnh mẽ để bảo vệ ngư dân Việt Nam, và bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.
Vừa rồi chúng tôi cũng gặp nhau kỷ niệm một năm xuống đường chống bọn bành trướng Bắc Kinh. Có thể nói đây là một kỷ niệm hết sức sâu sắc đối với chúng tôi - những người đã từng tham gia biểu tình. Trong những cuộc biểu tình đó có những vị trí thức lớn, đồng thời có những anh em trong phong trào sinh viên - học sinh cũ, cùng với thanh niên. Những hình ảnh thanh niên rất dũng cảm.Mặc dù một số trường học khuyến cáo không được biểu tình, nhưng có một số anh em sinh viên vẫn tham gia biểu tình, lên đến hơn ngàn người. Tôi còn nhớ một hình ảnh rất hào hùng là lúc đó cảnh sát dã chiến họ dựng barrier để ngăn cản, nhưng dòng người như một dòng thác cuối cùng đã cuốn những barriers đó. Cuối cùng họ đi từ Tổng Lãnh sự ra Nhà thờ Đức Bà rồi đường Lê Duẩn… Có thể nói khí thế rất lớn, hào hùng biểu thị ý chí và quyết tâm của nhân dân thành phố nói chung, và cả nước trong việc bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, nhất là những vùng hải đảo trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa.”
Bà Bùi thị Minh Hằng, một biểu tình viên chống Trung Quốc tích cực tại Hà Nội và từng bị bắt đưa vào Trại giáo dục Thanh Hà vì hoạt động tham gia biểu tình, cho biết động cơ tham gia biểu tình:
Người dân Hà Nội xuống đường biểu tình chống Trung Quốc hồi tháng 8 năm 2011. AFP PHOTO. |
“Vào những ngày này năm 2011, hòa với không khí chung của những đồng báo nói lên tình yêu nước, tôi cũng đã xuống đường. Một điều phải nói đã thôi thúc tôi đó là tình cảm của tất cả những người dân Việt Nam dành cho Tổ quốc mình trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào. Hơn nữa, tôi có thời gian làm những công việc gần gũi biển. Như tôi đã nói một vài lần là tôi từng chứng kiến những cảnh rất đau lòng, ví dụ việc ngư dân chết ngoài biển khơi, phải bỏ vào thùng đá ướp cá để đưa xác vào đất liền… Đó là cảm tình đồng loại, và lòng căm thù giặc ngoại xâm đối với bà con, dân tộc mình.
Vào thời điểm này năm ngoái trên các trang mạng xuất hiện tin tức và hình ảnh tàu Trung Quốc cắt cáp của tàu Việt Nam do chính công nhân chụp và đưa lên.”
Hoạt động của người dân biểu tình chống Trung Quốc gây hấn, xâm phạm lãnh hải Việt Nam đã không được chính quyền cho phép; đồng thời nhiều người như bà Bùi Thị Minh Hằng đã bị bắt giam, đánh đập… Truyền thông Nhà Nước như Đài Truyền hình - Phát thanh Hà Nội còn cho rằng họ là những thành phần gây rối an ninh trật tự.
Trước những biện pháp đàn áp của phía chính quyền, nhiều người tham gia biểu tình đã có khiếu nại đối với những biện pháp, quyết định, và tuyên truyền mà họ cho là vi phạm luật của phía chính quyền.
Bà Bùi thị Minh Hằng cho biết những phản ứng của người biểu tình trước hành xử của chính quyền trong khi biểu tình cũng như sau này:
Một điều phải nói đã thôi thúc tôi đó là tình cảm của tất cả những người dân Việt Nam dành cho Tổ quốc mình trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào.Bà Bùi thị Minh Hằng
“Khi chúng tôi bị đàn áp, những hình ảnh đó được ghi lại. bản thân tôi và nhiều người khác bị đàn áp bắt bớ. Chúng tôi đã có đơn thư gửi đến chính quyền Hà Nội mà đến bây giờ vẫn chưa được giải đáp thỏa đáng.”
Bà cũng nêu ra mối tình thân giữa những người cùng xuống đường biểu tình dù rằng họ thuộc những thế hệ, tầng lớp khác nhau:
“Xuất phát từ việc biểu tình thể hiện lòng yêu nước - điều này có suốt trong 4.000 năm lịch sử của dân tộc, nên tình cảm họ dành cho nhau là tình cảm của những người đi chiến đấu vì độc lập, tự do và lẽ phải. Tình cảm họ dành cho nhau mang tính chất đồng đội, đồng chí. Bởi thể đó luôn là sự gắn kết nói lên sự đoàn kết. Chúng tôi luôn giữ mãi những tình cảm của nhau như thế trong tất cả mọi trường hợp và thời gian tiếp theo.”
Một kỷ niệm sâu sắc
Luật gia Lê Hiếu Đằng thì cho biết cách thức mà những người yêu nước ở Sài Gòn hành động để bày tỏ lòng yêu nước của họ:
“Thật ra chúng tôi chủ trương đã biểu tình phải qui mô lớn. Nếu biểu tình chỉ vài chục hay vài trăm người thì không có khí thế. Trong cuộc biểu tình lần thứ hai số lượng người cũng giảm đi. Hà Nội có những ưu thế khác. Do đó chúng tôi nghĩ phải có hình thức khác hơn, như sau đó chúng tôi kỷ niệm ngày Trường Sa - Hoàng Sa ở số 43 Nguyễn Thông có mấy trăm người tham dự. Chúng tôi bày tỏ thái độ về việc đánh giá những người lính Cộng Hòa đã hy sinh bảo vệ Hoàng Sa năm 1974. Chúng tôi đề nghị phải nhớ ơn những người đó. Đồng thời phải nhớ ơn những chiến sĩ đã hy sinh ở biên giới phía Bắc, cũng như phía Nam, Đảo Gạc Ma năm 1988 khi Trung Quốc tấn công một vài đảo ở Trường Sa…
Chúng tôi chuyển qua những hình thức đó để không tạo cớ cho chính quyền đàn áp. Vì nay chưa có luật biểu tình nên họ đàn áp.”
Ông cũng đưa ra những ý kiến mà chính quyền cần có để bảo vệ đất nước:
Người dân biểu tình ôn hòa chống Trung Quốc tại Hà Nội hôm 12/06/2011. Courtesy NguyenXuanDien. |
“Trong tuyên cáo sau đó chúng tôi phản đối sự đàn áp những cuộc biểu tình yêu nước của người dân. Như thế là đi ngược lại ý chí, nguyện vọng của người dân. Chúng tôi biểu tình chống hành động ngang ngược của Trung Quốc là hành động chính đáng, có gì đâu mà cấm đoán. Nhưng rất tiếc chính quyền Tp Hồ Chí Minh và Hà Nội sau đó đã cấm việc làm đó nên chúng tôi thấy rất bất bình.
Tôi nghĩ lẽ ra phải dựa vào lòng dân, dựa vào sức mạnh của người dân để mà cảnh báo chính quyền Trung Quốc rằng chính nhân dân Việt Nam không thể nào chấp nhận những hành động ngang ngược của Trung Quốc. Lẽ ra Nhà Nước Việt Nam phải dựa vào khí thế của người dân, xem đây là một điều kiện trong mối quan hệ giữa hai nước. Không thể nói một cách chung chung “16 chữ vàng, 4 tốt”. Đó chỉ nói về mặt ngoại giao thôi chứ thực lực phải dựa vào dân. Về mặt quân sự mà nói giữa Việt Nam và Trung Quốc có sự chênh lệch; nên phải dựa vào lòng dân và dựa vào tình hình quốc tế- hiện Trung Quốc đang bị cô lập về tình hình Biển Đông. Chúng ta phải dựa vào những điều đó, và thấy buồn vì chính quyền không thấy được điều đó và đàn áp những cuộc biểu tình yêu nước của người dân.”
Cả hai người mà chúng tôi ghi nhận ý kiến nhân kỷ niệm một năm xuống đường biểu tình chống Trung Quốc gây hấn, xâm phạm lãnh hải của Việt Nam đều cho rằng không có gì có thể dập tắt lòng yêu nước của người dân. Dù bị ngăn chặn, đàn áp nhưng họ cũng sẽ tìm mọi cách để biểu tỏ lòng yêu nước, và cương quyết góp phần giữ vững chủ quyền, độc lập của quốc gia.
Nguon: RFA
Đã gần hai tháng trôi qua nhưng dư âm của cuộc bầu cử Quốc hội bổ sung ở Miến Điện vẫn có sức lan tỏa lớn. Vẫn còn nhiều dè dặt, thậm chí là hoài nghi về những đổi thay chính trị chóng vánh ấy, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta không được quyền tin tưởng vào một tương lai mới, tốt đẹp hơn cho xứ sở vàng này.
Miến Điện thay đổi, Việt Nam thì chưa
Nhiều nguyên nhân của sự thay đổi được nói đến: 1/do tác động của Hoa Kỳ và phương Tây lên chính quyền Miến Điện vì họ không muốn Miến Điện với vị trí địa chính trị quan trọng, rơi vào tay Trung cộng; 2/do sức ép về sự nghèo khổ, lạc hậu và ngày càng phụ thuộc vào Trung Quốc; 3/do tinh thần dân tộc và lòng yêu nước của những người lãnh đạo Miến Điện trước hiện trạng đất nước bị cô lập với thế giới ; 4/do sự đấu tranh ngoan cường của nhân dân Miến Điện dưới biểu tượng Aung San Suu Kyi, cùng với tác động của các cuộc nổi dậy ở Ả Rập khiến Nhà cầm quyền nhận thấy sự cần thiết phải nới lỏng chính sách cai trị “bàn tay sắt” của mình nếu không muốn chịu chung số phận với những kẻ độc tài đã ra đi ở Ả Rập…
Có thể mức độ tác động của những nhân tố này lên sự cải cách chính trị ở Miến Điện là không giống nhau, nhưng thiển nghĩ nguyên nhân của vấn đề nằm trong mối quan hệ cộng hưởng tất cả các nhân tố này. Không phải là cái này hay cái kia mà là tất cả; vấn đề là nhấn tố nào đóng vai trò cốt yếu, thúc đẩy các nhân tố còn lại.
Với nguyên nhân đầu tiên, tức là vị tri chiến lược của Miến Điện đã giúp họ, ta có thể đặt câu hỏi là Việt Nam với bờ biển dài nhìn ra một vùng biển chiến lược không quan trong trong con mắt người phương Tây và Mỹ sao? Nếu căn cứ vào nguyên nhân thứ hai, tức tình trạng nghèo khổ và bị cô lập, thì ta ngỡ ngàng tự hỏi: Bắc Triều Tiên không nghèo khổ và bị cô lập với thế giới ư? Về nguyên nhân thứ ba, nếu tập đoàn độc tài Miến Điện yêu nước thì sao lại khiến Miến Điện kiệt quệ như thế rồi mới đổi ý, tại sao mới đây họ vẫn đàn áp đẫm máu các cuộc biểu tình năm 2007; lâu nay họ vẫn cai trị bằng chính sách khắc nghiệt, tại sao bỗng nhiên trở nên đầy lương tri như thế? Và với nguyên nhân cuối cùng, ta có thể nhận thấy rằng, người Mỹ và phương Tây chỉ can thiệp vào những nơi mà tự nó đã có một phong trào vững mạnh và cũng chính sự phản kháng mạnh mẽ ấy của người dân Miến mới là điều gợi lên trong tâm trí những kẻ cầm quyền ý muốn thay đổi nhiều nhất, vì họ cảm thấy thực sự bất an về tương lai của mình. Với kiến thức hạn hẹp của mình, tôi nghĩ, đây mới là nguyên nhân nền tảng, là điều kiện tiên quyết, ảnh hưởng đến các nguyên nhân còn lại.
Miến Điện phản kháng mạnh mẽ, Việt Nam thì chưa
Từ cách nhìn nhận rằng một phong trào quần chúng phản kháng bền vững và mạnh mẽ là vô cùng quan trọng, nhiều câu hỏi cứ quanh quẩn trong đầu tôi, và có lẽ cũng ám ảnh khá nhiều người. Tại sao ngay từ năm 1974 đã có những cuộc biểu tình lớn ở Miến Điện, và năm 1988 đã có nửa triệu người tham gia meeting nghe bà Aung San Suu Kyi đọc diễn văn? Tại sao năm 2007, hơn 20.000 người bao gồm các nhà sư và dân chúng Miến Điện đi biểu tình, còn Việt Nam vào năm 2011, số người đi biểu tình chỉ bằng 1/10 con số ấy vào lúc cao điểm (dù ở ta, chỉ là biểu tình phản đối Trung Quốc chứ không phải là biểu tình đòi tự do dân chủ-một đòi hỏi tiến bộ, quan trọng và cũng nhạy cảm hơn nhiều)?
Người Miến Điện không sợ hãi sao? Không, đã là con người không ai muốn mang sự an toàn và sinh mạng của mình ra thách đố, đặc biệt là thách đố những kẻ cai trị có vũ trang. Người Miến Điện cũng vậy. Bằng chứng là theo các phóng viên quốc tế có mặt tại Miến Điện, sau những tuyên bố cải cách của chính quyền, nhiều người dân còn rất dè dặt, có người còn không dám dừng lại nhìn ảnh Aung San và con gái quá lâu vì họ e ngại những sự “cởi trói” này là giả dối (kiểu như năm 1986 Nguyễn Văn Linh “cởi trói văn nghệ sĩ “).
Người Miến Điện dám dấn thân vì họ từng có kinh nghiệm với nền dân chủ ư? Đồng ý kinh nghiệm về một nền dân chủ là điều kiện thúc đẩy lòng kháo khát được sống tự do. Nhưng người dân bình thường rất dễ quên, trong một khoảng thời gian đủ dài bị cai trị quá khắt nghiệt, họ sẽ quên mất mình từng được hưởng điều gì; huống chi lớp người đã từng kinh qua nền dân chủ ở Miến Điện vào thời điểm năm 1988 đã già và những người hăng hái đấu tranh nhất trong cuộc nổi dậy 8888 lại là những người trẻ. Và một câu hỏi quan trọng được đặt ra ở đây là : người miền Nam Việt Nam không có kinh nghiệm với dân chủ sao?
Hay vì dân Miến Điện quá đói khổ và thiếu thốn mọi phương tiện khiến họ phải đấu tranh, còn ở Việt Nam dù sao vẫn còn có thể chịu đựng được? Chúng ta hãy nhớ lại, năm 1962 khi Ne Win thiết lập chế độ độc tài, thì đến năm 1974, tức là 12 năm sau, đã có những cuộc biểu tình phản kháng chế độ. Còn ở miền Bắc Việt Nam, từ năm 1954 trải qua cuộc cải cách ruộng đất đẫm máu cùng thời kỳ tem phiếu bao cấp đói khổ cùng cực, cho đến năm 1986 là hơn ba mươi năm, thành thị và làng quê tan hoang nhưng không có cuộc phản kháng nào xảy ra cả. Ở miền Nam, từ năm 1975 đến 1986 trải qua thời kỳ bao cấp quằn quại cũng gần 12 năm nhưng mọi thứ vẫn im ắng. Bởi vậy, sự nghèo đói không thể là động lực giúp dân chúng vượt qua sợ hãi để đứng lên, nếu không muốn nói là nó có thể làm kiệt quệ tinh thần phản kháng.
Vậy thì tại sao Miến Điện có một phong trào phản kháng mạnh mẽ như thế, còn chúng ta thì không? Có lẽ nếu muốn đơn giản hóa vấn đề, ta chỉ cần quy kết cho vận mệnh mỗi dân tộc. Nhưng dù sao trước tiên chúng ta hãy tự cho mình cơ hội suy nghĩ một chút về vấn đề này.
Người Miến Điện giữ được nội lực, Người Việt Nam thì đã mất nội lực
Từ trước khi bà Aung San Suu Kyi về nước năm 1988, những cuộc biểu tình lớn đã nổ ra; nhưng không thể phủ nhận sự tham gia và lãnh đạo của bà đối với Liên Đoàn quốc gia vì Dân chủ đã làm phong trào đấu tranh dân chủ Miến Miến có thêm sức mạnh và sự gắn kết. Nhận định và đánh giá cao vai trò của bà-con gái một vị anh hùng dân tộc trong việc kết nối mọi thành phần đấu tranh, các trưởng lão dày dạn kinh nghiệm đã mời bà tham gia và trở thành người lãnh đạo Liên đoàn cũng như phong trào đối lập, dù trước đó bà chưa có kinh nghiệm chính trị nào. Tôi thật sự khâm phục những con người khả kính này, những con người đã đặt quyền lợi dân tộc lên trên cái tôi hão huyền để có được một người lãnh đạo có uy tín, một biểu tượng của phong trào-điều mà những người đối lập ở Việt Nam chưa có được. Bởi, như một người bạn mà tôi quý trọng đã nói rằng : “những người hoạt động ở Việt Nam có một tâm lý rất lạ: một mặt họ chống lại lãnh đạo (hiểu theo nghĩa lãnh tụ), mặt khác họ hành xử đầy tính lãnh tụ”. Vậy là ngay từ bước đầu tiên này chúng ta đã không thể sánh với người Miến Điện; còn chuyện thế nào là lãnh đạo, thế nào là lãnh tụ và vai trò của người lãnh đạo, tôi xin được nói trong một bài khác.
Có một người lãnh đạo nhiều uy tín là một điều quan trọng, nhưng sẽ là vô ích nếu người dân không hưởng ứng. Điều tôi muốn nhấn mạnh ở đây, khi nói về sự lớn mạnh của phong trào phản kháng ở Miến Điện chính là cái NỘI LỰC của họ. Dù sợ hãi chế độ độc tài, người Miến Điện đã có được một thứ NỘI LỰC mà người Việt Nam không có. NỘI LỰC ấy nằm ở sức mạnh văn hóa.
Mặc dù dưới những năm cầm quyền của mình, Ne Win muốn học tập Trung Quốc, định hướng cho Miến Điện theo con đường XHCN. Nhưng nhìn chung Miến Điện không bị áp đặt một chủ thuyết nào lên toàn bộ hệ thống chính trị, xã hội, kinh tế. Chế độ cầm quyền ở đó là quân phiệt chứ không phải cộng sản như Việt Nam. Một chính thể độc tài không mang theo mình một chủ thuyết độc hại như chủ nghĩa cộng sản thì bản chất nó cũng gần giống với một nền quân chủ chuyên chế; nó có thể làm cho xã hội trì trệ và lạc hậu, nhân cách xuống cấp ở một mức độ nào đó nhưng ít ra nó không phá hủy triệt để những giá trị văn hóa truyền thống của xã hội, để thay vào đó là một loại văn hóa, loại mô hình xã hội bệnh hoạn, duy ý chí như trường hợp Việt Nam, Trung Quốc.
Ở Miến Điện, văn hóa, đạo đức và tôn giáo vẫn giữ được giá trị nội tại, đời sống văn hóa tinh thần của người dân vẫn nhân văn và thuần phác. Một nền luân lý Phật giáo đúng nghĩa đứng ở vị trí trung tâm trong đời sống tinh thần của họ. Như những nhà báo quốc tế ghi nhận thì, người dân Miến tuy sống nghèo khổ nhưng rất hiền lành, đa số họ thiền định mỗi ngày. Nghèo khổ và lạc hậu ở họ không đồng nghĩa với sự hèn nhát và sự xuống dốc về văn hóa và đạo đức. Chính vì giữ được sức mạnh tinh thần ấy, chính vì đứng trên cái trụ văn hóa nhân bản, trong đói khổ, đàn áp và sợ hãi, người dân Miến không ngừng phản kháng, đòi tự do, dân chủ.
Trái lại, dưới chế độ cộng sản Việt Nam, văn hóa, đạo đức và các truyền thống tôn giáo tốt đẹp đã gần như bị hủy hoại tận gốc rễ. Một xã hội hiện đại nửa mùa, một nền văn hóa mới theo kiểu Tây phương chưa xây dựng được (mà chỉ bắt chước người ta những thói xấu), còn cội nguồn văn hóa truyền thống thì đã biến thái thành những thứ quái dị. Những nhân đức hiền lành, chất phác, lòng yêu nước thiết tha biến thành những mánh mung, lừa đảo, vị kỷ. Một tôn giáo truyền thống từng góp phần to lớn xây dựng nên khí chất Việt Nam, bây giờ đã trở thành một thứ mê tín dị đoan. Đã mấy mươi năm sống dưới một chế độ độc tài hủy diệt văn hóa, bóp méo ý chí lành mạnh và làm thui chột năng lực tinh thần thì lúc đói khổ chúng ta chỉ lo miếng cơm, lúc sung túc chúng ta chỉ lo hưởng thụ. Mất cái gốc tinh thần (văn hóa, luân lý) chúng ta đang lâm vào một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về ý chí và nhân cách. Cái gốc của mọi hành động là tinh thần, ý chí yếu đuối, tinh thần bạc nhược, thì chẳng thể làm những việc lớn lao (nếu không có những điều kiện đột biến làm đòn bẩy).
Vì thế, giáo dục dân trí thông qua những luận bàn nghiêm túc về văn hóa (kể cả văn hóa chính trị), đạo đức, xã hội, chính trị… sẽ là cực kỳ cần thiết để vực dậy cái nội lực đã hư hao ấy; để chính sự phục hồi này, nếu không tạo được một biến cố cho sự đổi thay thì nó cũng giúp cho một thể chế tiến bộ trong tương lai dễ vận hành hơn. Và như John Stuart Mill đã nói: “Một dân chúng có thể còn chưa sẵn sàng cho một thiết chế tốt đẹp, nhưng việc nhen nhóm lên lòng mong ước có được thiết chế ấy phải là phần việc cần thiết cho sự chuẩn bị”. Văn hóa suy đồi, tinh thần khiếp nhược chính là những thứ chúng ta phải chung tay từng giờ để tháo gỡ, hầu mang lại một nội lực mới cho dân tộc. Có nội lực ấy rồi, không những chúng ta có thể dễ dàng xóa bỏ chế độ độc tài, mà còn có thể tiến vào chế độ dân chủ tự do không chút trở ngại.
Sài Gòn, ngày 25 tháng 5 năm 2012
Huỳnh Thục Vywww.vietthuc.org
Sài Gòn – Nhiều anh chị em yêu mến hoà bình và sự thật đã ngạc nhiên khi thấy ông Nguyễn Bắc Truyển, một tù nhân chính trị xuất hiện tại DCCT, trong thánh lễ cầu nguyện cho Công lý và Hoà bình. Nói với phóng viên VRNs, ông Truyển cho biết đã hết hạn quản chế tại gia 10 ngày.
Tuy nhiên, trưa hôm nay, 29.05.2012, chúng tôi nhận được tin, ông Nguyễn Bắc Truyển lên UBND phường 4, quận 4, Sài Gòn để làm việc với chủ tịch phường 4 và nhân viên thi hành án quận 4, cùng nhân viên Tư pháp phường.
Tại đây, nhà cầm quyền đã thông báo về việc ông Truyển phải thi hành quản chế cho đến hết ngày 31.08.2012. Lý do mà họ đưa ra là khi ông rời nhà tù ngày 17.05.2012, ông không thực hiện quản chế tại phường Nguyễn Cư Trinh mà tự ý đi làm việc tại huyện Bình Chánh. Họ cũng đưa ra Quyết định thi hành án quản chế của Tòa án đối với ông ban hành vào tháng 09.2010, do đó họ nói cái mốc thi hành quản chế của ông bắt đầu từ ngày 31/8/2010 và sẽ chấm dứt vào ngày 31/8/2012.
Tôi đã trình bày với họ rằng, sau khi ra tù, 5 ngày sau tôi đã trình diện địa phương và việc không thi hành quản chế đối với tôi là do lỗi địa phương (phường Nguyễn Cư Trinh) không phải lỗi cùa tôi, do đó việc kéo dài thời gian quản chế gọi là “bù″ vào thời gian không quản chế là một sự vi phạm các quy định về quản chế. Tôi đề nghị họ phải xem xét lại việc này. Họ nói là sẽ có cuộc họp giữa các ban ngành liên quan để giải quyết việc quản chế của tôi và trả lời cho tôi biết. Tôi đề nghị họ phải có văn bản chính thức về việc chấm dứt quản chế hay tiếp tục thi hành quản chế đối với trường hợp của tôi. Họ đồng ý sẽ có văn bản chính thức. Đây là cái thế tôi buộc họ phải làm để họ không thể chơi trò ma giáo sau ngày 31.08.2012.
Thật ra, khi nhận được thư mời của Ủy ban phường 4, ông Nguyễn Bắc Truyển đã đoán trước nội dung làm việc là sẽ kéo dài thêm thời gian quản chế. Trước đó ngày 27.05.2012, ông đã rời khỏi nhà cùng với chị Bùi Thị Minh Hằng (người vừa về từ trại giáo dục Thanh Hà) đi thăm Thầy Thích Thiện Minh và tham dự Thánh Lễ tại Dòng Chúa Cứu Thế. An ninh đã biết ông rời khỏi nhà, nhưng khác với thái độ trước đây là lập biên bản về sự vắng mặt của ông, họ lặng lẽ rút lui và đón ông bên Dòng Chúa Cứu Thế. Khi biết ông xuất hiện tại Dòng Chúa Cứu Thế họ cũng không phản ứng gì, cho thấy họ lúng túng trong việc xử lý trường hợp của ông: đã chấm dứt quản chế hay chưa? chính họ cũng không chắc chắn. Họ đang mua thời gian cho tất cả các vấn đề nhằm kéo dài sự riệu rạo suy yếu của chế độ.
Cũng theo nguồn tin riêng của VRNs cho biết ông Nguyễn Bắc Truyển đã nói với nhà cầm quyền: “3 năm 6 tháng tù và 2 năm quản chế vừa qua cũng không thay đổi được quan điểm và tư tưởng thì thêm 3 tháng nữa cũng vậy mà thôi”.
Nguồn tin này cho biết thêm an ninh đã đề nghị là sau khi hết quản chế của ông Truyển, họ sẽ làm một cái lễ tổng kết “ăn mừng”, nhưng ông đã không đồng ý, và cho biết “tôi sẽ đến lấy giấy chứng nhận hết quản chế và ra về, không có ăn mừng hay tổng kết gì hết”.
Nguồn tin riêng cũng cho biết, một nhân viên an ninh có trách nhiệm làm việc với ông thường xuyên, đã đe doạ ông: anh ta được phân công theo tôi như một cái bóng, cho đến khi nào một trong hai người chết mà thôi, tôi không ngạc nhiên lắm việc này.
CTV.
Nguon: VRNs
New York - Người Bảo vệ Nhân quyền bị trừng phạt vì bày tỏ quan điểm
(New York, ngày 29 tháng Năm năm 2012) – Hôm nay, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền phát biểu rằng chính quyền Việt Nam cần hủy bỏ bản án dành cho blogger Hồ Thị Bích Khương, 44 tuổi và ngay lập tức trả tự do cho bà. Tòa án Nhân dân Tỉnh Nghệ An dự kiến mở phiên phúc thẩm vào ngày 30 tháng Năm năm 2012 để xử việc kháng án của bà đối với bản án năm năm tù giam vì vi phạm điều 88 bộ luật hình sự, có nội dung cấm “tuyên truyền chống nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.”
(New York, ngày 29 tháng Năm năm 2012) – Hôm nay, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền phát biểu rằng chính quyền Việt Nam cần hủy bỏ bản án dành cho blogger Hồ Thị Bích Khương, 44 tuổi và ngay lập tức trả tự do cho bà. Tòa án Nhân dân Tỉnh Nghệ An dự kiến mở phiên phúc thẩm vào ngày 30 tháng Năm năm 2012 để xử việc kháng án của bà đối với bản án năm năm tù giam vì vi phạm điều 88 bộ luật hình sự, có nội dung cấm “tuyên truyền chống nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.”
Bà Hồ Thị Bích Khương bị xử sơ thẩm vào ngày 29 tháng Mười Hai năm 2011 vì đã trả lời phỏng vấn báo chí nước ngoài, với nội dung bị chính quyền cho là phê phán chính phủ, và vì đã làm ra, tàng trữ và phát tán các tài liệu bị coi là chống nhà nước.
“Đây là lần thứ ba trong vòng bảy năm, Hồ Thị Bích Khương bị vào tù vì đã thực thi quyền bày tỏ quan điểm của mình,” ông Phil Robertson, Phó Giám đốc phụ trách châu Á của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền nói. “Việc áp dụng điều 88 một cách có hệ thống để tùy tiện trừng phạt các blogger và những người phê phán chính phủ cho thấy mức độ coi thường tự do ngôn luận của Việt Nam vẫn không hề suy giảm.”
Vào tháng Năm năm 2005, chính quyền bắt giữ Hồ Thị Bích Khương ở Hà Nội, nơi bà tới văn phòng khiếu tố của chính phủ để nộp đơn khiếu nại về việc chính quyền địa phương tịch thu các cửa hàng của bà. Tòa án Nhân dân quận Ba Đình, Hà Nội, xử bà sáu tháng tù giam vì hành vi “gây rối trật tự công cộng” theo điều 245 bộ luật hình sự. Vào tháng Tư năm 2007, công an bắt giữ bà tại một tiệm Internet ở Nghệ An vì đang đọc thông tin trên các trang mạng nước ngoài. Tháng Tư năm 2008, một năm sau khi bắt giam Hồ Thị Bích Khương, Tòa án Nhân dân tỉnh Nghệ An xử bà hai năm tù về tội “lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước” theo điều 258.
Hồ Thị Bích Khương là một thành viên tích cực của một nhóm dân oan đang phát triển rất nhanh, gồm những người đi khiếu kiện đã sử dụng mạng Internet để bảo vệ quyền lợi của mình và của những người bị oan ức khác. Bà công bố những thông tin chi tiết về các hành động đàn áp và sách nhiễu nhằm vào bản thân và gia đình mình, và viết về những nỗi khổ cực của những người nông dân nghèo và những người bảo vệ nhân quyền phải chịu đựng. Bà được trao giải thưởng uy tín Hellman-Hammett năm 2011.
Ngày 28 tháng Ba năm 2012, Tòa án Nhân dân tỉnh Nghệ An dự định mở phiên phúc thẩm vụ Hồ Thị Bích Khương. Bà đã thành công trong việc yêu cầu hoãn phiên xử khi tuyên bố trước tòa rằng mình đã bị biệt giam và thậm chí không được thông báo trước về ngày xử phúc thẩm. Bà kể với người nhà rằng mình đã bị một phạm nhân khác đánh bốn lần trong khi quản giáo ngoảnh mặt làm ngơ.
Đó không phải là lần đầu Hồ Thị Bích Khương bị đánh đập trong khi bị tạm giam. Hồi ký ngục tù của bà được báo Người Việt Online, một tờ báo có nhiều ảnh hưởng của người Mỹ gốc Việt ở Quận Cam, bang California đăng nhiều kỳ trong tháng Bảy và tháng Tám năm 2009. Trong hồi ký, bà thuật lại chi tiết việc bị công an điều tra đánh trong khi tạm giam, đồng thời tả khái quát về điều kiện sống khủng khiếp sau song sắt.
“Công an vẫn tiếp tục tra tấn những người bị tạm giam, tạm giữ một cách có hệ thống,” ông Robertson nói. “Chính quyền cần tiến hành điều tra kỹ càng và công khai về những cáo buộc nghiêm trọng của Hồ Thị Bích Khương và quy trách nhiệm đối với những cán bộ đã đánh đập hoặc dung túng cho những tù nhân khác lạm dụng bà.”
Sau khi được thả vào tháng Tư năm 2009, Hồ Thị Bích Khương tiếp tục lên án chính quyền đã gây ra những nỗi bất công cho mình và gia đình mình. Bà từng tham gia vào ít nhất là hai cuộc biểu tình tự phát của những người mất đất hoặc đòi quyền lợi ở Nghệ An trong năm 2010 và viết bài trên mạng Internet về những vi phạm bà cho là do chính quyền địa phương gây ra đối với quyền lợi người dân ở đó.
Trong tháng Mười Một năm 2010, Hồ Thị Bích Khương đi thăm gia đình các nạn nhân bị chết dưới tay công an trong một cuộc xung đột về quyền lợi đất đai ở Nhà máy lọc hóa dầu Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa, vào tháng Năm năm 2010, và chất vấn sự im lặng của chính quyền trước vụ việc này. Tháng Mười Hai cùng năm đó, bà thuật lại việc chính quyền địa phương dùng bạo lực đối với các nhóm Tin lành Mennonite độc lập ở Thanh Hóa khi họ cố họp mặt tổ chức thánh lễ mừng Giáng sinh. Ba tuần sau đó, Hồ Thị Bích Khương bị bắt.
“Đáng lẽ Việt Nam phải biết ơn những người như Hồ Thị Bích Khương đã kêu gọi sự chú ý về những hành vi lạm dụng của chính quyền địa phương,” ông Robertson nói. “Họ tạo cho chính phủ một cơ hội điều tra sự việc và thể hiện cam kết tôn trọng pháp quyền. Khi chính quyền phản ứng ngược lại bằng cách xiết chặt báo chí và bắt giam các blogger độc lập, họ đương nhiên khuyến khích các hành vi tham nhũng và lạm quyền hơn nữa.”
Human Rights Watch
Chuacuuthe.com