Nhìn tấm hình hết sức xúc động, nghĩ đến sự can đảm tuyệt vời và tình yêu đất nước của thanh niên Tây Tạng khiến tôi muốn khóc. Còn hình ảnh nào cao đẹp và ý nghĩa hơn. Kinh thánh Thiên Chúa Giáo dạy rằng: “Yêu là chết cho người mình yêu” vì Chúa Jesus đã chết đau đớn trên thập giá vì yêu thương nhân loài.
Chàng thanh niên Tây Tạng anh hùng cũng đã noi theo tấm gương của Jesus, là chết cho tình yêu, một cái chết không hề lãng phí. Chỉ có tình yêu, người ta mới dám vượt qua tất cả những khó khăn, gian khổ. Chỉ có tình yêu, người ta mới dám từ bỏ tất cả. Chỉ có tình yêu, cuối cùng, là hiến dâng sự sống tươi đẹp của mình. Cái chết cao cả cho tình yêu đất nước của chàng thanh niên Tây Tạng, mãi mãi và mãi mãi ngậm ngùi, đau đớn, ray rứt và rạng rỡ trong lịch sử tranh đấu của nhân dân và đất nước Tây Tạng.
Tháng 10 năm 1950, Mao Trạch Đông xua quân và chiếm đóng lãnh thổ Tây Tạng từ đó cho đến bây giờ. Tàu đã xáp nhập lãnh thổ Tây Tạng và phần đất của Trung Hoa, nhưng không thể nào xáp nhập trái tim, tư tưởng và con người Tây Tạng được.
Nhiều cuộc nổi dậy của nhân dân Tây Tạng bị đàn áp. Cho dù được Hoa Kỳ ủng hộ, và thế giới tán đồng, và vị lãnh đạo tinh thần được kính trọng, Đạt Lai Lạt Ma, vẫn không thể lung lay chế độ cộng sản Tàu. Một khi lòng tham của Tàu chiếm đóng, khó lòng nó nhả ra. Nhưng không vì thế, sự việc chống ngoại xâm của Tây Tạng chùn bước.
Bức hình thanh niên Tây Tạng tự thiêu phản kháng lãnh đạo cộng sản Tàu là Hồ Cẩm Đào khi đến thăm Ấn Độ, chắc chắn làm thế giới bùi ngùi xúc động, và là ngọn lửa sẽ thiêu rụi chế độ cộng sản Tàu trong tương lai.
Người Mỹ bị gọi là “can thiệp Mỹ”, hoặc “cảnh sát quốc tế” vì bị cho là xen vào các chính sách của các nước nhỏ, cho dù Mỹ can thiệp bằng kinh tế, văn hoá, quân sự vào các vùng trên thế giới. Nhưng, có điều là Mỹ không có chính sách chiếm đóng và không muốn đồng hoá lãnh thổ cho mình. Tàu thì khác, chủ trương của họ là chiếm đóng và đồng hoá các dân tộc khác vào lãnh thổ, Tàu muốn tàn sát, diệt chủng văn hoá, đè bẹp tư tưởng, để tất cả chỉ còn là Hán tộc duy nhất cai trị các sắc dân khác.
Những nước có chung biên giới với Tàu như Việt Nam, Ấn Độ, Pakistan, Afghanistan, Miến Điện, Nepal… là các nước nhỏ luôn bị, nhòm ngó, bị đe doạ, bị hăm he chiếm đóng lãnh thổ. Ngoại trừ Ấn Độ là nước đông dân có đến cả tỉ người như Tàu, và từng có cuộc chiến tranh với Tàu vào năm 1962, và Tàu cũng ngán Ấn Độ hiện nay. Còn lại, các nước nhỏ khác, là mục tiêu và tầm ngắm của Tàu trong dã tâm thôn tính, xâm chiếm.
Việt Nam ta từng bị chiếm đóng, và suýt bị đồng hoá gần 1000 năm, nhưng sự quật cường anh dũng của cha ông ta, đã giành lại tự do, độc lập. Nhưng gần đây, dưới sự cai trị của nhóm cầm quyền cộng sản Việt Nam, các vùng đảo của tổ quốc mình, như Hoàng Sa bị chiếm đóng hoàn toàn, các đảo của Trường Sa bị Tàu lấy một số, và các nước như Phi, Đài Loan lấy một số, mà nhà cầm quyền Việt Nam hiện nay thụ động, sợ hãi, né tránh khi đòi lại, thậm chí bắt nhốt dân mình khi người dân bày tỏ ý chí và hành động chống Tàu. Điều này đang là nỗi bất mãn lớn trong lòng dân Việt, trong cũng như ngoài nước.
Theo tôi, hạ cây phải bới rễ. Cái gốc cộng sản Tàu phải chết đi, thì cái ngọn cây cộng sản Việt Nam mới héo và khô rụi. Do vậy, chúng ta cần yểm trợ tích cực các cuộc tranh đấu của Tây Tạng và các tổ chức chống cộng sản Tàu khác, ngay cả các tổ chức của người Tàu như môn phái Pháp Luân Công chẳng hạn, cần được yểm trợ, ủng hộ và tạo thành cầu nối, mối liên kết chặt chẽ.
Lấy độc trị độc. Ngày trước, chế độ cộng sản Việt Nam đã dốc sức người, sức của để tiếp thị khối phản chiến Mỹ, khối báo chí thiên tả Mỹ chống đối cuộc chiến Việt Nam, và ngay cuộc mặc cả với Tàu qua ông ngoại trưởng Kissinger và thủ tướng Tàu Chu Ân Lai, cũng do bởi áp lực của khối thiên tả phản chiến này, để sau hết, quân Mỹ rút chạy và bỏ rơi miền Nam Việt Nam vào tay cộng sản miền Bắc.
Hôm nay, chúng ta hãy vận động truyền thông Mỹ và thế giới nhìn rõ về hình ảnh Đại Hán của Tàu là mối đe doạ của thế giới, kể cả đe doạ Mỹ trong tương lai gần. Hình ảnh của tự thiêu, đốt cháy thân mình, phản đối Tàu của thanh niên và người dân Tây Tạng, là hình ảnh sống động, chứng cớ hùng hồn nhất, về sự tức giận, bất mãn của Tây Tạng đối với chính sách Đại Hán Trung Hoa.
Dễ nhất, tẩy chay hàng Tàu, không ủng hộ sản phẩm Tàu dù qua nước thứ ba, là cái việc dễ làm và thiết thực nhất. Qua mạng lưới toàn cầu, email hình ảnh, thư từ, tin tức về việc chống ngoại xâm, về việc chiếm đóng các phần lãnh thổ của các nước, trong đó có Việt Nam mình đến tất cả các cơ quan truyền thông báo chí Hoa Kỳ và thế giới cũng là một việc dễ làm, chỉ ngồi trước bàn phím, gõ chữ “send” đến các địa chỉ.
Góp gió thành bão, và chẳng bao lâu cơn bão sẽ quét sạch chế độ cộng sản Tàu hiện đang phân hoá, lung lay bên trong nội bộ của họ. Gốc cây Tàu sẽ chết, và ngọn cây Hà Nội cộng sản Việt Nam sẽ khô héo.
Nhìn người lại nghĩ đến ta. Bao giờ thì ta có hình ảnh của một thanh niên Việt Nam nổi lửa đốt mình để chống Tàu tại Hà Nội?
Châu Đình An
http://chaudinhan.net/2012/03/28/l%E1%BB%ADa-chay-cho-tinh-yeu/
Theo tin từ gia đình cho biết, hiện nay 2 luật sư nhận bào chữa cho blogger Điếu Cày (tức Nguyễn Văn Hải) và Anh Ba Sài Gòn (tức Phan Thanh Hải) đã được cấp giấy chứng nhận bào chữa. Các luật sư này đã tiếp xúc với 2 thân chủ tại trại giam công an TP.HCM ở số 4 Phan Đăng Lưu.
Nhà cầm quyền Việt Nam dự định thượng tuần tháng 4/2012 sẽ đưa vụ án ra xét xử. Tội danh được gán cho 2 blogger này là Điều 88 Bộ luật hình sự (BLHS) liên quan đến việc tham gia Câu lạc bộ Nhà báo tự do (CLBNBTD). Chị Maria Tạ Phong Tần cũng bị ghép cùng tội danh với hai blogger này và sẽ đưa ra xét xử trong thời gian gần đây. Chị Tần cũng là thành viên CLBNBTD.
Chị Dương Thị Tân, vợ cũ của blogger Điếu Cày cho chúng tôi biết chị và 2 con nhận được giấy của Viện Kiểm sát cho phép vào trại giam thăm gặp anh Điếu Cày. Nhưng ngày 16/3/2012 vừa qua khi ba mẹ con chị đến trại tạm giam công an TP.HCM ở số 4 Phan Đăng Lưu, Bình Thạnh thì công an trại giam gặp riêng em Nguyễn Trí Dũng (con trai anh Điếu Cày) và bắt em ký vào những tài liệu đã in sẵn mà không cho đọc nội dung. Công an ở đây nói rằng chỉ cho Dũng gặp mặt anh Điếu Cày nếu chịu ký tên vào. Dũng yêu cầu ra ngoài hỏi ý kiến mẹ là chị Dương Thị Tân. Sau đó chị Tân cùng hai con ra về vì cho rằng công an đã lạm dụng chức vụ khi đưa ra điều kiện mới cho gặp anh Điếu Cày. Công an ở trại tạm giam số 4 Phan Đăng Lưu đã vi phạm pháp luật khi không làm theo yêu cầu của VKS là cho gia đình thăm gặp anh Điếu Cày.
Về thông tin trước đây cho rằng blogger Điếu Cày được đưa vào bệnh viện cấp cứu, luật sư bào chữa cho blogger Điếu Cày xác nhận là có, vì anh Điếu Cày đã tuyệt thực trong trại giam nên sức khỏe suy kiệt phải đưa đi bệnh viện.
Blogger Điếu Cày bị xử tù giam 3 năm vì “tội trốn thuế”, đến ngày 19/10/2010 là mãn hạn tù. Nhưng anh vẫn không được trả tự do mà bị đưa đi đâu đến nay (hơn 17 tháng) và vì lý do gì vẫn không ai hay biết. Chị Dương Thị Tân đã tốn biết bao nhiêu công sức và thời gian đến công an hỏi tin tức của anh Điếu Cày nhưng không được giải thích thỏa đáng.
Theo luật sư của blogger Anh Ba Sài Gòn, anh có thể bị truy tố vi phạm khoản 2 điều 88 BLHS, với hình phạt tù từ 12 đến 20 năm.
Gia đình chị Tạ Phong Tần hiện đang tìm kiếm luật sư bào chữa cho chị nhưng chưa biết ai sẽ nhận lời.
Điều 88 về tội “tuyên truyền chống nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam” quy định như sau:
1. Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thì bị phạt tù từ 3 năm đến 12 năm:
a) Tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân;
b) Tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt gây hoang mang trong nhân dân;
c) Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hóa phẩm có nội dung chống nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
2. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
Trên thực tế, như nhận định của luật sư Lê Trần Luật: “Có rất nhiều lý do để xóa bỏ điều 88 Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành. Dư luận cũng như các chuyên gia pháp lý đã chỉ ra rất nhiều điểm bất cập và sự vô lý của điều luật này. Đặc biệt ai ai cũng dễ dàng nhận ra đây là điều luật vi hiến.”
PV. VRNs
Nhà cầm quyền Việt Nam dự định thượng tuần tháng 4/2012 sẽ đưa vụ án ra xét xử. Tội danh được gán cho 2 blogger này là Điều 88 Bộ luật hình sự (BLHS) liên quan đến việc tham gia Câu lạc bộ Nhà báo tự do (CLBNBTD). Chị Maria Tạ Phong Tần cũng bị ghép cùng tội danh với hai blogger này và sẽ đưa ra xét xử trong thời gian gần đây. Chị Tần cũng là thành viên CLBNBTD.
Chị Dương Thị Tân, vợ cũ của blogger Điếu Cày cho chúng tôi biết chị và 2 con nhận được giấy của Viện Kiểm sát cho phép vào trại giam thăm gặp anh Điếu Cày. Nhưng ngày 16/3/2012 vừa qua khi ba mẹ con chị đến trại tạm giam công an TP.HCM ở số 4 Phan Đăng Lưu, Bình Thạnh thì công an trại giam gặp riêng em Nguyễn Trí Dũng (con trai anh Điếu Cày) và bắt em ký vào những tài liệu đã in sẵn mà không cho đọc nội dung. Công an ở đây nói rằng chỉ cho Dũng gặp mặt anh Điếu Cày nếu chịu ký tên vào. Dũng yêu cầu ra ngoài hỏi ý kiến mẹ là chị Dương Thị Tân. Sau đó chị Tân cùng hai con ra về vì cho rằng công an đã lạm dụng chức vụ khi đưa ra điều kiện mới cho gặp anh Điếu Cày. Công an ở trại tạm giam số 4 Phan Đăng Lưu đã vi phạm pháp luật khi không làm theo yêu cầu của VKS là cho gia đình thăm gặp anh Điếu Cày.
Về thông tin trước đây cho rằng blogger Điếu Cày được đưa vào bệnh viện cấp cứu, luật sư bào chữa cho blogger Điếu Cày xác nhận là có, vì anh Điếu Cày đã tuyệt thực trong trại giam nên sức khỏe suy kiệt phải đưa đi bệnh viện.
Blogger Điếu Cày bị xử tù giam 3 năm vì “tội trốn thuế”, đến ngày 19/10/2010 là mãn hạn tù. Nhưng anh vẫn không được trả tự do mà bị đưa đi đâu đến nay (hơn 17 tháng) và vì lý do gì vẫn không ai hay biết. Chị Dương Thị Tân đã tốn biết bao nhiêu công sức và thời gian đến công an hỏi tin tức của anh Điếu Cày nhưng không được giải thích thỏa đáng.
Theo luật sư của blogger Anh Ba Sài Gòn, anh có thể bị truy tố vi phạm khoản 2 điều 88 BLHS, với hình phạt tù từ 12 đến 20 năm.
Gia đình chị Tạ Phong Tần hiện đang tìm kiếm luật sư bào chữa cho chị nhưng chưa biết ai sẽ nhận lời.
Điều 88 về tội “tuyên truyền chống nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam” quy định như sau:
1. Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thì bị phạt tù từ 3 năm đến 12 năm:
a) Tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân;
b) Tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt gây hoang mang trong nhân dân;
c) Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hóa phẩm có nội dung chống nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
2. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
Trên thực tế, như nhận định của luật sư Lê Trần Luật: “Có rất nhiều lý do để xóa bỏ điều 88 Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành. Dư luận cũng như các chuyên gia pháp lý đã chỉ ra rất nhiều điểm bất cập và sự vô lý của điều luật này. Đặc biệt ai ai cũng dễ dàng nhận ra đây là điều luật vi hiến.”
PV. VRNs
Mục sư Nguyễn Công Chính giữ chức hội trưởng giáo hội Liên hữu Lutheran Hoa Kỳ-Việt Nam bị bắt hồi tháng 4 năm 2011. Hôm 26/3/2012 vừa qua, Tòa án tỉnh Gia lai đưa ra xét xử và tuyên án 11 năm tù giam với các tội danh theo điều 87 Bộ luật hình sự Việt Nam.
Hòa Ái có cuộc trao đổi với ông John Sifton, giám đốc đặc trách Châu Á của Tổ Chức Theo Dõi nhân quyền- Human Right Watch về vấn đề tự do tôn giáo ở Việt Nam hiện nay .
Xâm phạm quyền tự do tôn giáo
Hòa Ái: Xin chào ông John Sifton, xin ông cho biết ý kiến của mình sau khi Tòa án Nhân Dân tỉnh Gia Lai, Việt Nam đưa ra bản án 11 năm tù giam theo điều 87 Bộ Luật hình sự Việt Nam về tội “phá hoại đoàn kết dân tộc” đối với Mục sư Nguyễn Công Chính.
Ông John Sifton: “Thật không may đây chỉ là một trường hợp mới nhất trong hàng loạt những trường hợp mà chính quyền Việt Nam kết án những nhà lãnh đạo tôn giáo. Chính quyền cho rằng các nhà lãnh đạo tôn giáo vi phạm luật, chẳng hạn theo điều 79 là gây hại cho chính quyền và quốc gia. Thực tế, chính quyền Hà Nội đang đàn áp tôn giáo vì họ lo sợ các nhóm tôn giáo đe dọa đến quyền lực của một quốc gia độc đảng.
Thật sự không phải là vì lý do tôn giáo mà chỉ là sự thể hiện suy nghĩ của họ mà thôi. Trường hợp của Mục sư Nguyễn Công Chính không phải là một trường hợp riêng biệt, mà đã và đang có quá nhiều trường hợp giống như thế. Việt Nam tiến hành bắt bớ và kết tội những nhà lãnh đạo tôn giáo mà những người này không hề gây ra bất cứ ảnh hưởng nào đến chính quyền hết.”
Chính quyền cho rằng các nhà lãnh đạo tôn giáo vi phạm luật, chẳng hạn theo điều 79 là gây hại cho chính quyền và quốc gia. Thực tế, chính quyền Hà Nội đang đàn áp tôn giáo vì họ lo sợ các nhóm tôn giáo đe dọa đến quyền lực của một quốc gia độc đảng.
Ông John Sifton
Hòa Ái: Qua các hồ sơ ghi nhận của Tổ Chức Theo Dõi Nhân Quyền thì có nhiều nhóm tôn giáo xin đăng ký nhưng không được chính quyền chấp nhận. Các nhóm tôn giáo này thường bị công an và các lực lượng an ninh quấy nhiễu và hăm dọa. Chính quyền cáo buộc những nhóm tôn giáo này là “phản động” và bắt bớ các nhà lãnh đạo tôn giáo theo điều luật 87 của Bộ luật hình sự. Thưa ông, qua những hành động này, ông có thấy rằng Việt Nam thật sự tôn trọng tự do tôn giáo hay không?
Ông John Sifton: “Một lần nữa tôi muốn nhấn mạnh rằng không chỉ là tự do tôn giáo mà còn quyền tự do ngôn luận nữa. Việc chính quyền Việt Nam quy kết các nhóm tôn giáo là “phản động” cho thấy họ không thể giải thích được những gì họ cáo buộc và rõ ràng họ đàn áp các tôn giáo. Ở những quốc gia khác, tự do tôn giáo có thể có những nhóm tôn giáo quá khích hay thậm chí thật ngớ ngẩn, mù quáng nhưng đâu có lý do gì để bắt họ vào tù. Nhưng ở Việt Nam, chính quyền cứ khăng khăng muốn các tôn giáo phải nói theo những gì mà họ muốn nghe theo ý muốn của họ. Nếu không thì bị cho là gây hại cho quốc gia. Đó không phải là cách vận hành của một xã hội lành mành. Xã hội thế giới vận hành trong thế kỷ 21 này không phải như vậy. Rõ ràng thực tế chứng minh là Việt Nam đang vi phạm quyền tự do tôn giáo và quyền tự do ngôn luận.”
Không tôn trọng luật quốc tế
Hòa Ái: Việt Nam thường dùng những điều luật như là 88, 79, 87 để buộc tội những người muốn được thực hiện tự do tôn giáo hay muốn có tự do trình bày ý kiến của mình. Theo ông, những hành động này có bị mâu thuẫn với Bản Tuyên Bố Nhân Quyền Quốc Tế mà Việt Nam đã ký kết hay không?
Ông John Sifton: “Nhà nước Việt Nam không có thực hiện bổn phận và trách nhiệm theo luật nhân quyền quốc tế. Dù có thực hiện theo hay không, hiện tại luật nhân quyền quốc tế được áp dụng chính thức trên toàn thế giới. Việt Nam đã ký kết và phải có trách nhiệm thực hiện. Họ đã thể hiện những gì họ cam kết khi muốn làm thành viên trong cộng đồng thế giới. Khi cố gắng thương thảo về Hiệp Định Tự Do thương mại với một số quốc gia trong đó có Hoa Kỳ, họ đóng kịch như là họ đang thực hiện những luật quốc tế này. Nhưng thật sự, không phải như vậy. Họ làm ra vẻ như họ tôn trọng tự do tôn giáo. Việt Nam không thể tiến xa hơn trong cộng đồng thế giới một khi họ vẫn tiến hành đàn áp tôn giáo tại đất nước mình.”
Hòa Ái: Được biết Ủy Ban Tôn Giáo Quốc Tế Hoa Kỳ đề nghị đưa Việt Nam trở lại danh sách các quốc gia đàn áp tôn giáo CPC. Nhưng dư luận cho rằng mối quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ không thể đi lùi. Vậy, ông có thấy đề nghị đưa Việt Nam trở lại danh sách CPC là khả thi?
Ông John Sifton: “Điều này là khả thi. Rất có thể Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ sẽ đưa Việt Nam trở lại danh sách các nước đàn áp tôn giáo gọi tắt là CPC. Dù có nằm trong danh sách CPC hay không, thì vẫn có rất nhiều các viên chức quan tâm đến vấn đề này. Đặc biệt là các đại biểu Quốc Hội rất quan tâm đến vấn đề nhân quyền ở Việt Nam. Họ sẽ không đồng ý cho Tổng Thống Mỹ Barack Obama có mối quan hệ ngoại giao thân thiết với Việt Nam nếu như Việt Nam không cải thiện tình hình nhân quyền.
Việc chính quyền Việt Nam quy kết các nhóm tôn giáo là “phản động” cho thấy họ không thể giải thích được những gì họ cáo buộc và rõ ràng họ đàn áp các tôn giáo.
Ông John Sifton
Quyết định về mối quan hệ thân thiết này không phải do Tổng Thống đương nhiệm hay Tổng Thống nhiệm kỳ tiếp theo mà là do quyết định của Quốc Hội Liên Bang Hoa Kỳ. Thực tế hiện nay Việt Nam không quan tâm đến nhân quyền. Quốc gia này đang đang đi sai đường lối về tự do tôn giáo, tự do lập hội, họ dùng công an trấn áp, và còn nhiều vấn đề khác nữa. Việt Nam cần phải thay đổi trong những năm tới đây nếu họ muốn tham gia vào cộng đồng quốc tế.”
Hòa Ái: Và xin được hỏi ông câu hỏi sau cùng. Qua trường hợp mới nhất của Mục sư Nguyễn Công Chính bị kết án 11 năm tù, liệu rằng chính quyền có thể ngăn chặn được những người theo đuổi niềm tin tôn giáo và tự do ngôn luận hay không?
Ông John Sifton: “Tôi không nghĩ như thế. Theo nhận định của riêng tôi thì các nhóm tôn giáo sẽ tiếp tục một cách mạnh mẽ dù chính quyền có làm gì đi nữa. Dù nhà nước Việt Nam có công nhận hợp pháp hay không thì vẫn không có tác dụng gì đối với niềm tin tín ngưỡng của người dân. Việt Nam phải nhận ra điều cần phải làm là dừng lại những hành động hiện thời và đừng can thiệp vào đời sông tín ngưỡng và tâm linh của người dân Việt.”
Hòa Ái: Xin cảm ơn ông John Sifton đã dành thời gian cho cuộc phỏng vấn này.
RFA
Baghdad chủ trì hội nghị quan trọng của Liên đoàn Ả Rập |
Mỹ tăng áp lực buộc Syria thực hiện kế hoạch hoà bình của Liên Hiệp Quốc (LHQ) và Liên đoàn Ả Rập giữa bối cảnh các lãnh đạo Ả Rập đang họp tại Baghdad.
Kế hoạch, do ông Kofi Annan dàn xếp, kêu gọi ngừng bắn dưới sự giám sát của LHQ, đồng thời yêu cầu quân đội chính phủ rút khỏi các thành phố đối lập cũng như cho phép tiếp cận viện trợ nhân đạo.
Syria đồng ý với bản kế hoạch vào thứ Ba, 27/3, tuy nhiên bạo lực vẫn tiếp tục.
Vấn đề này được đặt trong nghị trình hàng đầu của cuộc họp tại Baghdad, nơi chủ trì hội nghị thượng đỉnh quan trọng lần đầu tiên sau hơn 20 năm.
Phóng viên BBC, Wyre Davies, cho biết không kỳ vọng cao ở cuộc họp. Nhưng việc Liên đoàn ả Rập tổ chức hội nghị ở thủ đô Iraq dẫu sao cũng là chỉ dấu cho thấy có tiến bộ cho Syria.
Người đứng đầu LHQ, ông Ban Ki-moon, dự kiến sẽ tham dự hội nghị.
Trước đó, ông thúc giục Tổng thống Bashar al-Assad “thực hiện cam kết ngay lập tức”.
“Không còn thời gian để lãng phí”, ông cho biết và mô tả về kế hoạch như một “bước tiến ban đầu”.
Dự kiến, ông Ban Ki-moon sẽ gặp gỡ với các nhà lãnh đạo chủ chốt tại hội nghị để bàn luận về việc LHQ sẽ kết hợp với Liên đoàn À Rập như thế nào nhằm thực hiện đề xuất của ông Annan.
Nghi ngờ
Kế hoạch của ông Kofi Annan muốn LHQ giám sát ngừng bắn |
Phát biểu với báo giới hôm thứ Tư, 28/3, phát ngôn viên Bộ ngoại giao Mỹ Victoria Nuland cho biết họ “chưa từng chứng kiến cam kết của ông Assad thành hiện thực”.
“Tất cả chúng ta cần duy trì áp lực để ông Assad thực hiện cam kết, và đó là ý định của chúng tôi trong những ngày tới."
Hôm thứ Ba, 27/3, ông Kofi Annan tuyên bố rằng Syria đã chấp thuận kế hoạch hoà bình gồm sáu điểm.
Tuy nhiên, Syria nói rằng họ sẽ không đề cập đến bất kỳ sáng kiến nào từ phía Liên đoàn Ả Rập. Syria đã bị tạm khai trừ khỏi Liên đoàn từ hồi năm ngoái.
Phát ngôn viên chính phủ Syria phát biểu với BBC hôm 28/3 rằng: “Kể từ khi vai trò thành viên của chúng tôi bị đình chỉ, chúng tôi sẽ chỉ giải quyết với các quốc gia Ả Rập ở cấp song phương.”
Các nhóm đối lập Syria lại tỏ nghi ngờ về các điều khoản trong kế hoạch hoà bình của ông Annan. Một số nói rằng việc ông Assad chấp thuận kế hoạch này đơn thuần chỉ là trì hoãn thời gian để ông ta có thể tiếp tục đàn áp.
BBC
Câu hỏi tưởng đơn giản và sơ đẳng, nhưng lại rất liên quan và mang tính thời sự ở Việt Nam, nhất là vấn đề Hoàng Sa – Trường Sa. Câu hỏi có phần khó khăn hơn trong lĩnh vực khoa học xã hội và sử học. Người viết bài này dĩ nhiên là “dân ngoại đạo” hai ngành đó, nhưng cũng muốn có vài ý kiến xuất phát từ quan điểm của khoa học thực nghiệm.
Dư luận xôn xao sau bài nói chuyện của Gs Ts Nguyễn Quang Ngọc về “Vấn đề Chủ quyền của Việt Nam ở Trường Sa và Hoàng Sa”. Có ý kiến cho rằng đó không phải là “nghiên cứu khoa học”, mà chỉ là cóp nhặt những tư liệu lịch sử và trình bày lại cho một cử toạ gồm những người quan tâm đến vấn đề. Trước đó (18/6/2011) Gs Ngọc còn có một bài viết trên Tuần Việt Namvới tựa đề “Bằng chứng lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa” nhưng với câu kết như sau:
“Chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa là một trong những trang đẹp nhất, bi hùng nhất của lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam ta, mà bất cứ người Việt Nam chân chính nào cũng cần phải biết trân trọng và gìn giữ, không chỉ cho hôm nay, mà còn cho muôn đời sau.”
Có người xem đó là một bài “nghiên cứu khoa học” để phản bác lại những người cho rằng những gì Gs Ngọc trình bày không phải là “nghiên cứu”. Tôi nghĩ để biết đó có phải là nghiên cứu khoa học hay không, chúng ta cần phải xem qua nội dung buổi thuyết trình. Tôi thu thập vài slides của giáo sư Ngọc từ trang web Bảo tàng nhân học và trình bày lại trong một pdf kèm theo dưới đây. Bạn đọc có thể theo dõi và tự trả lời xem đó có phải là “nghiên cứu khoa học”.
Trong khi bạn đọc tìm câu trả lời cho riêng mình, tôi sẽ trình bày có vài ý kiến về định nghĩa nghiên cứu khoa học. Là người từ ngoài ngành nhìn vào khoa học xã hội, tôi nghĩ có lẽ cần phải phân biệt giữa hai việc (cũng có thể xem là khái niệm): khảo cứu và nghiên cứu khoa học. Phân biệt hai việc làm này cũng có thể có ích trong việc xác định những gì giáo sư Ngọc trình bày là khoa học hay không khoa học.
Khảo cứu (research) bao gồm những việc làm như thu thập dữ liệu, thông tin để hình thành tri thức. Hiểu theo nghĩa này, đọc một bài báo, một cuốn sách, xem một bản tin trên đài truyền hình, nghe tin tức từ đài phát thanh, thậm chí truy tìm trên internet có thể xem là khảo cứu. Những khảo cứu dưới dạng này có thể xếp vào lĩnh vực mà chúng ta hay gọi là tổng quan(review). Ở Úc, học sinh tiểu học và trung học phải làm khảo cứu trong chương trình học của họ. Học sinh từ lớp 4 hoặc 5 đã được huấn luyện cách thu thập thông tin từ internet, báo chí, sách vở để báo cáo và hình thành một ý tưởng về một vấn đề nào đó, như vấn đề môi sinh, kinh tế, gia đình, v.v.
Nghiên cứu khoa học (scientific research hay scientific study) khác với khảo cứu. Khác ở chữ khoa học. Theo quan điểm chung được nhiều người chấp nhận, nghiên cứu khoa học là qui trình thực hiện một thí nghiệm có phương pháp để kiểm định một hay nhiều giả thuyết, hoặc để nhằm tìm câu trả lời cho những câu hỏi chuyên biệt. Dĩ nhiên, “thí nghiệm” ở đây phải hiểu rộng hơn trong khoa học xã hội. Hai từ quan trọng trong định nghĩa này là có phương pháp và giả thuyết. Nghiên cứu khoa học phải dựa vào phương pháp khoa học (scientific method). Chính phương pháp khoa học phân biệt một nghiên cứu khoa học thật với một nghiên cứu khoa học dỏm (pseudo scientific research).
Nói một cách ngắn gọn, một nghiên cứu có phương pháp khoa học phải được thực hiện theo trình tự như sau:
- Đặt câu hỏi (research question): phương pháp khoa học khởi đầu bằng một hay vài câu hỏi. Những câu hỏi có thể liên quan đến những gì nhà khoa học đang quan sát hay có kinh nghiệm. Câu hỏi bắt đầu bằng nhữngtại sao, cái gì, lúc nào, ở đâu, ai, như thế nào (tức là những why, what, when, where, who và how).
- Khảo sát tài liệu liên quan đến câu hỏi: Không ai có thể bắt đầu từ con số 0, mà phải bắt đầu từ những gì những người đi trước đã làm. Do đó, khảo sát tài liệu, thu thập thông tin liên quan đến câu hỏi là rất quan trọng để hình thành một giả thuyết.
- Phát biểu giả thuyết (hypothesis): Giả thuyết ở đây là phát biểu mang tính tiên đoán, kiểu như nếu tôi làm điều này thì kết quả sẽ là thế này. Một nghiên cứu mà không có giả thuyết thì không thể xem là nghiên cứu khoa học được.
- Tiến hành thí nghiệm để kiểm định giả thuyết: Trong khoa học, bất cứ giả thuyết nào cần phải kiểm định bằng thí nghiệm. Thí nghiệm có thể là thí nghiệm có kiểm soát hoặc có nhóm chứng (controlled experiment) nhưng cũng có thể là thí nghiệm tự nhiên (natural experiment).
- Phân tích dữ liệu từ thí nghiệm và kết luận: Ở bước này, câu hỏi đặt ra là dữ liệu thu thập từ thí nghiệm có phù hợp với giả thuyết đặt ra. Không như bên toán học người ta có thể chứng minh một định lí hay một phát biểu, trong khoa học thực nghiệm và khoa học xã hội, không có chuyện chứng minh giả thuyết, mà chỉ có vấn đề dữ liệu có nhất quán với giả thuyết hay không mà thôi.
- Truyền đạt kết quả và kết luận: Một nghiên cứu không thể xem là hoàn tất nếu kết quả chưa được công bố cho đồng nghiệp và công chúng biết và phản biện. Nơi công bố không phải là những báo chí đại chúng, mà là các tập san khoa học chuyên ngành có bình duyệt (peer review) hoặc ít ra là trong các hội nghị khoa học có bình duyệt.
Quay lại bài của Gs Ngọc, đọc qua nội dung của những slides cho thấy giáo sư bắt đầu bằng giải thích về 5 hình thức “đắc thụ lãnh thổ”, sau đó là quá trình khai chiếm biển Đông, trình bày một số dữ liệu (bản đồ) cổ về biển Đông và ghi chép của các giáo sĩ phương Tây, vương triều Nguyễn xác lập chủ quyền trên Hoàng Sa – Trường Sa, thực trạng tranh chấp, và những việc mà ông cho là cần làm. Không thấy kết luận. Đọc tựa đề “Vấn đề Chủ quyền của Việt Nam ở Trường Sa và Hoàng Sa”, người ta kì vọng một câu trả lời cho những vấn đề, nhưng trong thực tế, ông có một kết luận rằng “cần phải hiểu đúng chủ quyền trên biển theo Công ước của Liên hiệp quốc về Luật biển”. Không biết câu này ông nói cho người Việt Nam hay giới cầm quyền ở Bắc Kinh.
Đối với những ai mới tìm hiểu về Hoàng Sa – Trường Sa, tôi nghĩ những thông tin Gs Ngọc trình bày cũng có ích. Đối với những ai quan tâm và theo dõi vấn đề chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa thì những gì Gs Ngọc trình bày không có gì mới. Người ta có thể vào trang web nghiên cứu biển Đông, đọc sách của tác giả Nguyễn Nhã, Đinh Kim Phúc, v.v. còn có nhiều thông tin hơn. Chẳng những không có gì mới mà những thông tin ông cung cấp có vẻ quá đơn giản, không đầy đủ. Chẳng hạn như trong phần “thực trạng tranh chấp”, giáo sư Ngọc không đề cập đến sự kiện chính quyền China tấn công và xâm chiếm Gạc Ma vào năm 1988 và trước đó hải chiến với VNCH (Hoàng Sa) vào năm 1974. Một thiếu sót khó hiểu và đáng ngạc nhiên! Không rõ những gì giáo sư trình bày có phải là tri thức mới (vì những dữ liệu trong những slides đó đã có trong sách và các nguồn đã công bố từ lâu). Cũng không rõ những thông tin giáo sư trình bày có cái gì là của chính giáo sư nghiên cứu và sáng tạo ra, hay là những thông tin của người khác mà ông chỉ thu thập và trình bày lại. Không rõ nghiên cứu đã công bố ở tập san nào có bình duyệt hay chưa, nhưng một điều khá chắc chắn là nghiên cứu của ông chưa công bố trên một tập san quốc tế nào (vì tìm trong SSCI không thấy bài nào của ông). Có thể kết quả được trình bày trong một báo cáo nghiệm thu chỉ có một số ít được đọc.
Nếu đối chiếu những định nghĩa và qui trình trên đây, chúng ta dễ dàng thấy những gì Gs Ngọc trình bày có lẽ được xếp vào loại “khảo cứu” hay một exercise, chứ không phải là một công trình “nghiên cứu khoa học”. Thật ra, đối với vấn đề chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa, có lẽ khảo sát và lí luận là thích hợp hơn. Chúng ta cần những lí luận sắc bén trên cơ sở pháp lí và logic, với cơ sở chứng cứ từ khảo sát, chứ không cần những khảo sát thuần tuý thu thập dữ liệu. Dữ liệu mà không được biến thành thông tin thì đó là dữ liệu không có ích. Chúng ta không cần những nghiên cứu để viết nên những câu chữ mang đậm tính rhetoric và cảm tính như “Chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa là một trong những trang đẹp nhất, bi hùng nhất của lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam ta.” Chúng ta rất cần những công trình lí luận về pháp lí để nói với giới học thuật quốc tế (chứ không phải những khảo cứu dành cho báo chí đại chúng) về chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Nhưng chắc chắn nghiên cứu khoa học cũng có vai trò trong vấn đề Hoàng Sa – Trường Sa. Nghiên cứu khoa học về chủ đề gì và tiếp cận ra sao? Tôi nghĩ cách tiếp cận trong Eden in the East là một cách để chúng ta tham khảo. Tôi nghĩ đến những nghiên cứu phân tích về thời điểm hình thành và nguồn gốc của thực vật, gia cầm trên các đảo và mối tương quan với thực vật và động vật trên đất liền. Đó cũng là một đóng góp đáng kể để chúng ta có thêm chứng cứ khoa học về chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo.
Nguyễn Văn Tuấn
Nguồn: Nguyễn Văn Tuấn – Blog
Nguồn: Nguyễn Văn Tuấn – Blog