Như thường lệ hai năm một lần, hôm 23/9/2011 vừa qua Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ công bố một bản Phúc Trình về Tự Do Tôn Giáo trên thế giới. Bản phúc trình này dựa trên những dữ kiện điều tra, theo dõi về chính sách tôn giáo và những vi phạm quyền tự do tôn giáo tại 198 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới do Ủy Ban Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế Hoa Kỳ, USCIRF đệ trình và đề nghị.
Phúc Trình Tự Do Tôn Giáo Của Hoa Kỳ
Năm nay, Ủy Ban này đã đề nghị với hành pháp Hoa Kỳ liệt kê một số quốc gia có chính sách vi phạm trầm trọng quyền tự do tín ngưỡng cần phải quan tâm đặc biệt, trong đó có 8 quốc gia đã nằm trong danh sách đen CPC từ những lần điều tra trước đây là Miến Điện, Trung Quốc, Eritrea, Iran, Bắc Triều Tiên, Ả Rập Saudi, Sudan và Uzbekistan. Nhưng ngoài những nước này Ủy Ban còn đề nghị thêm 10 quốc gia còn có nhiều vi phạm hay thiếu sót về tôn trọng tự do tôn giáo. Đó là: Afghanistan, Ai Cập, Irak, Nigeria, Pakistan, Nga, Tajikistan, Turkmenistan, Venezuela và Việt Nam. Thực chất, sau khi khai thác bản báo cáo của Ủy Ban, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ mới là cơ quan quyết định ghi vô hay lấy ra khỏi danh sách CPC các quốc gia do Ủy Ban đề nghị. Cũng nên biết là Việt Nam đã từng bị nằm trong danh sách CPC hồi năm 2004 và tuy trong những lần điều tra kế tiếp Ủy Ban đã đề nghị đưa Việt Nam trở lại danh sách này, nhưng vì nhiều lý do kinh tế, chính trị khác chính quyền Hoa Kỳ vẫn chưa chấp thuận.
Liên quan đến Việt Nam, bản phúc trình đã dành 20 trang để nêu lên những nhận xét tích cực cũng như tiêu cực về hiện tình thực tế của các tôn giáo tại nước ta. Tựu trung lại thì những điểm tiêu cực vẫn nhiều và nặng hơn những điểm tích cực. Điều đáng chú ý là bản phúc trình đã đưa ra những bằng chứng cụ thể về các vi phạm nhân quyền trong lãnh vực tôn giáo do chế độ CSVN là thủ phạm đối với tất cả các tôn giáo tại nước ta.
Trước những bằng chứng quá hiển nhiên do các tôn giáo cung cấp, do các quan sát viên của những tổ chức phi chính phủ ghi nhận, do những phóng viên quốc tế chứng kiến và nhất là do chính những nạn nhân và người trong cuộc khiếu kiện hay thông tin trên các trang mạng thế giới, nhà cầm quyền CSVN không thể nào chối cãi các sự việc vi phạm tự do tôn giáo. Họ chỉ còn có một luận điệu cũ rích mà lần nào bị thế giới tố cáo, chỉ trích về chà đạp nhân quyền là lại mang ra đối đáp với các phóng viên nước ngoài. Ai nấy đều phát ngấy vì họ đoán trước được câu trả lời của bao đời phát ngôn nhân. Lần này người phát ngôn mới được bổ nhậm đã lập lại: "Tại Việt Nam, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân được quy định rõ trong Hiến pháp, được tôn trọng và được bảo đảm trên thực tế. Điều này đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận… Báo cáo tự do tôn giáo quốc tế của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho giai đoạn từ tháng 7/2010 đến tháng 12/2010, mặc dù đã ghi nhận những thành tựu của Việt Nam trong lĩnh vực này, vẫn tiếp tục đưa ra những đánh giá không khách quan, trích dẫn những thông tin sai lệch về Việt Nam".
Ai cũng biết bản Hiến Pháp của nước Việt Nam hiện nay được viết khá giống với những nước dân chủ tiến bộ, nghĩa là đầy đủ các giá trị nhân quyền mà cả nhân loại đã coi là đương nhiên. Tuy nhiên, trong khâu áp dụng thì nhà nước không những không tôn trọng các điều khoản của Hiến Pháp mà còn lập ra luật, ban hành các chỉ thị, và cho nhân viên các cấp thường xuyên làm ngược lại những điều khoản trong Hiến Pháp. Ngay trong bản Phúc Trình Về Tự Do Tôn Giáo, Hoa Kỳ cũng biết rõ chuyện này khi họ viết "Hiến Pháp và các bộ luật cũng như những chính sách khác bảo vệ quyền tự do tôn giáo, nhưng trong thực tế, chính quyền quản lý và trong nhiều trường hợp hạn chế tự do tôn giáo. Thường thường chính quyền tôn trọng tự do tôn giáo đối với hầu hết các nhóm tôn giáo có đăng ký (được công nhận), tuy nhiên, đối với những cộng đồng không được công nhận ngay cả những cộng đồng được công nhận vẫn bị đàn áp".
Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cũng tường trình: "Bà ngoại trưởng Clinton, trong các cuộc hội đàm với những quan chức chính quyền, đã kêu gọi phải không ngừng có những tiến bộ về tự do tôn giáo. Những quan chức khác của Bộ Ngoại Giao cũng đã nêu vấn đề tự do tôn giáo trong những cuộc gặp gỡ với những giới chức trong chính quyền trong năm qua".
Những lý do chính thức được nhà cầm quyền CSVN nêu ra để làm ngược lại những điều quy định trong hiến pháp liên quan đến tự do tôn giáo là vấn đề "an ninh, ổn định" và "phá hoại tình đoàn kết dân tộc". Trong khuôn khổ này, họ biện hộ cho những hành động đàn áp bằng cách vu khống cho các tôn giáo là có hoạt động chính trị, có quan hệ với những "thế lực thù địch" nước ngoài; hoặc gây chia rẽ tôn giáo, gây hiềm khích, vv…
Điều đáng chú ý nữa được bản Phúc Trình của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ ghi nhận là "những điều ghi trong Hiến Pháp về tự do tôn giáo đã không được diễn dịch một cách thống nhất ở khắp mọi nơi. Sự lừng khừng của chính quyền và cách làm việc thơ lại rùa bò đã hạn chế tự do tôn giáo của dân".
Khi người phát ngôn CSVN được chỉ thị đưa ra lời tuyên bố trên đây, nói rằng tự do tôn giáo có ghi trong Hiến Pháp, thì thế giới biết ngay nhà nước Trung Ương đang dọn chỗ để có thể đổ lỗi cho cán bộ địa phương làm sai. Nhưng thực chất, những hành động vi hiến, chà đạp tự do tôn giáo xuất phát từ bản chất CSVN và từ lãnh đạo trung ương. Các bài bản đối phó với tôn giáo đi từ Trung Ương xuống đến các địa phương trên cả nước theo 3 hệ thống cán bộ đặc trách tôn giáo của Đảng, Nhà nước, và Mặt trận tổ quốc. Bản phúc trình còn ghi rõ thái độ: "Trong nhiều trường hợp, quan chức chính quyền địa phương đã nói với các vị lãnh đạo tôn giáo rằng luật pháp quốc gia KHÔNG áp dụng trong địa giới của họ".
Trong lời tuyên bố phản bác bản phúc trình, người phát ngôn Lương Thanh Nghị còn khẳng định là Hoa Kỳ đã "đánh giá không khách quan, trích dẫn những thông tin sai lệch về Việt Nam". Vậy câu hỏi được đặt ra là đánh giá và thông tin về tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam của các quan sát viên quốc tế đang hiện diện ở nước ta có sai lệch không? Câu trả lời gần nhất có thể tìm thấy trong chuyến kinh lý mục vụ giáo phận Kontum vừa qua của Đức Tổng Giám Mục Leopoldo Girelli, Đại Diện Tòa Thánh không thường trú tại Việt Nam.
Đại Diện Tòa Thánh thăm viếng giáo phận Kontum
Trước khi nói về chuyến viếng thăm Việt Nam lần thứ 3 và cụ thể là tại giáo phận Kontum của Đức Tổng Giám Mục Leopoldo Girelli kể từ ngày 13/01/2011 là ngày ngài được Đức Giáo Hoàng Bênêdictô XVI chỉ định làm Đại Diện Tòa Thánh không thường trú tại Việt Nam, thiết tưởng cũng nên tìm hiểu về chức vụ và vai trò của ngài.
Tòa Thánh Vatican đã thiết lập quan hệ cấp khâm sứ với Việt Nam từ đầu thế kỷ trước, chính xác là từ năm 1925. Tòa khâm sứ từ đó được đặt tại kinh đô Huế. Năm 1945 Huế không còn là kinh đô nữa nên tòa khâm sứ đã được chuyển ra Hà Nội năm 1950. Sau hiệp định Genève 1954, miền Bắc Việt Nam rơi vào tay Việt Minh và Đức Khâm Sứ cùng đoàn tùy tùng đã bị trục xuất ngày 15/9/1959. Cũng kể từ năm 1959 Tòa Thánh Rôma đã thiết lập tòa khâm sứ tại Sài Gòn. Sau ngày 30/4/1975, chính phủ lâm thời Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đã yêu cầu Khâm Sứ đương thời là Đức Cha Henri Lemaitre rời khỏi Việt Nam và đoạn giao với Tòa Thánh Vatican. Ngày 19/12/1975 Đức Cha Lemaitre rời Sài Gòn. Kể từ đó, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam bước vào thời kỳ đen tối nhất, bị bức hại, bị tước đoạt các cơ sở bác ái, tu hành, thờ phượng. Nhiều vị tu sĩ và giáo dân bị bắt đi giam cầm nhiều thập niên và nhiều người đã chết trong tù.
Vào cuối thập niên 80, chủ nghĩa cộng sản phá sản trên toàn thế giới. Một vài nước còn sót lại đã phải xoay chiều không còn dám lộng hành bất chấp quốc tế như trước đây nữa. Họ đã phải mở cửa, từ bỏ đấu tranh giai cấp, lạy lục các nước tư bản để mong được hội nhập nhằm sống còn. Giữa lúc nhân dân các nước cộng sản cũ đứng lên lật đổ độc tài đòi nhân quyền và tự do tôn giáo, CSVN cũng phải tìm cách lân la với Vatican tuy không phải là siêu cường kinh tế hay quân sự nhưng là siêu cường về tinh thần, tâm linh. Trong lúc đó, Vatican cũng có nỗ lực để cứu giúp đoàn chiên Việt Nam đã chịu bao nhiêu đắng cay trong hàng chục năm dưới chế độ độc tài thù hằn tôn giáo. Vì đôi bên cùng có nhu cầu mà Hà Nội đã vận động để được Đức Giáo Hoàng tiếp kiến, và kết quả của những cuộc đàm phán là Hà Nội đã chấp thuận sự hiện diện của một vị Đại Diện Đức Thánh Cha tại Việt Nam dù vị này chưa thường trú tại Việt Nam.
Vì giữa Vatican và Việt Nam hiện chưa thiết lập bang giao chính thức, nên Đức Tổng Giám Mục Ricelli chưa phải là Khâm Sứ hay Sứ Thần Tòa Thánh tại Việt Nam. Nhưng với tư cách vị Đại Diện Đức Giáo Hoàng, ngài có hai nhiệm vụ song song: Thứ nhất là đẩy mạnh những quan hệ giữa hai quốc gia (Việt Nam và Vatican); thứ nhì là duy trì những mối liên lạc giữa Tòa Thánh với Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Về mặt tôn giáo thì rõ ràng Đức Cha Đại Diện là người thay mặt Đức Giáo Hoàng và được sự kính mến của toàn thể giáo hội Công Giáo Việt Nam, đặc biệt trong 3 ngày kinh lý mục vụ giáo phận Kontum vừa qua. Để được gặp mặt ngài nhiều đồng bào thượng ở sâu trong rừng đã phải lội suối, băng đèo hơn 40 cây số. Có người đi xe máy, có người đi xe kéo nông cụ… Dọc đường ngài đi qua, hàng ngàn giáo dân đứng hai bên chào đón, có những đoàn cồng chiêng của anh em thượng hợp tấu dưới trời mưa tầm tã… Chính Đức Đại diện cũng không kìm nổi sự xúc động trước lòng yêu mến, hiếu thảo và trung thành của con cái giáo phận Kontum đối với Đức Thánh Cha mà ngài là Đại Diện. Như vậy đối với Giáo Hội Công Giáo Việt Nam thì Đức Tổng giám Mục Leopoldo Ricelli quả thật đã là Sứ Thần Tòa Thánh.
Thái Độ của Nhà Nước Đối Với Cuộc Viếng Thăm
Trên mặt ngoại giao, chuyến viếng thăm của Đức Đại Diện Tòa Thánh được đánh dấu bằng 2 cuộc tiếp xúc.
Ngày thứ nhì sau khi tới Kontum, sáng ngày 10/9, Đức Cha Girelli đã tới thăm xã giao UBND tỉnh Kontum. Tháp tùng ngài có Đức Cha Micae Hoàng Đức Oanh, Giám Mục giáo phận Kontum và một số linh mục chức sắc. Tiếp đón phái đoàn ngay từ tiền sảnh Hội Trường trụ sở UBND là ông Phó Chủ Tịch UBND tỉnh Kontum và một số quan chức tỉnh. Buổi tiếp xúc tuy ngắn ngủi khoảng chừng 15 phút, nhưng đã diễn ra trong tinh thần tương kính, lịch thiệp. Ông Phó chủ tịch đã cáo lỗi vì ông Chủ tịch bận công tác xuất ngoại và đã tặng Đức Cha Đại Diện Tòa Thánh một bức tranh Nhà Rông cao nguyên.
Sau nhiều lần hò hẹn, chiều hôm 10/9/2011, lúc 17giờ30 Đức TGM Leopoldo Girelli, Đại Diện Tòa Thánh cùng phái đoàn đã tới chào UBND tỉnh Gia Lai. Theo bản tin của Nhóm Truyền Thông Giáo Phận Kontum thì "Trước khi đến chào thăm Chính quyền tỉnh Gia Lai, Cha Tôma Nguyễn Văn Thượng nhận được nhiều cuộc điện thoại từ mặt trận tỉnh mời đoàn lên kịp giờ hẹn (5 giờ 30 chiều). Đoàn xe đi vào cổng chính và dừng ngay tiền sảnh của UBND Tỉnh Gia Lai, đúng 5 giờ 28 phút. Cửa nhà khách Tỉnh im lìm không mở, phái đoàn quay nhìn chung quanh thì thấy có một căn phòng ở trên kia tầng lầu có một căn phòng cửa bật đèn và có mấy người đứng chờ sẵn trên đó. Phái đoàn đã đi lên tầng lầu đó…"
Phái đoàn Tòa Thánh đã được ông Đào Xuân Liên, phó chủ tịch UBND tỉnh Gia Lai cùng với khoảng 7 người khác tiếp kiến. Nội dung những lời phát biểu của ông Liên là một bài tuyên truyền về chính sách tôn giáo của CSVN và nhắn nhủ Đức TGM Đại Diện Tòa Thánh và Đức Cha Oanh phải dạy dỗ giáo dân sống "tốt đời đẹp đạo". Chắc hẳn Đức Cha Girelli trong 3 lần tới thăm Việt Nam cũng nắm được tình hình tôn giáo tại Việt Nam và những vụ vi phạm tự do tôn giáo không những đối với Công Giáo và còn đối với Phật Giáo, Tin Lành, Hòa Hảo, Cao Đài, và các tôn giáo khác nữa. Vì vậy Đức TGM Leopoldo Girelli đã nêu thẳng với ông Đào Xuân Liên: "Tôi xin chúc cho chính quyền và nhân dân tỉnh Gia Lai được bình an và kinh tế phát triển phồn thịnh hơn trong tương lai, đồng thời xin chính quyền cũng quan tâm tới quyền của người dân và quyền tự do tôn giáo của họ. Xin chân thành cám ơn cho những thiện cảm và sự tích cực để có cuộc gặp gỡ này". Tại điểm này, ông Đào Xuân Liên và UBND Gia Lai biết Đức TGM Girelli đã nắm rõ tình hình tôn giáo tại Gia Lai và trên cả nước. Họ im bặt. Theo nhóm Truyền Thông Giáo Phận thì đây là cuộc tiếp khách quốc tế gượng gạo và bất lịch sự nhất của UBND tỉnh Gia Lai.
Sau khi rời UBND Gia Lai, phái đoàn đã đến Trung Tâm Truyền Giáo Pleichuet do các cha Dòng Chúa Cứu Thế phụ trách để sinh hoạt, cầu nguyện với giáo dân Jarai. Đức TGM Girelli dự trù sẽ nghỉ qua đêm tại nhà dòng Pleichuet để sáng sớm hôm sau dâng lễ trước khi khởi hành đi Ban Mê Thuột. Cay cú vì câu nhắc nhở ban chiều của TGM Girelli, lãnh đạo tỉnh Gia Lai "ra lệnh miệng" không cho Đức TGM nghỉ lại đêm tại nhà dòng mà phải quay trở về Kontum. Phái đoàn đành cùng anh chị em giáo dân Jarai đốt lửa trại, ca vũ trong niềm vui hy vọng và trở về Kontum.
Những tưởng như vậy thì ngày hôm sau buổi lễ đại trào tại Pleichuet sẽ bị bãi bỏ. Nhưng sau khi ngủ chưa đầy 4 tiếng qua đêm tại Kontum, phái đoàn đã trở lại đúng 5 giờ 30 trước cổng nhà thờ Pleichuet. Theo các phóng viên Truyền Thông, ngày 11 tháng 9 năm 2011 thật là một ngày đáng nhớ đời với anh chị em Jrai; từ rất sớm (3 giờ sáng) anh chị em Jrai tại các buôn làng đã lũ lượt kéo về Trung Tâm Truyền Giáo Pleichuet, ước tính lên đến gần 20 ngàn người.
Trong ba ngày thăm viếng của Đức Đại Diện Tòa Thánh tại giáo phận Kontum, lãnh đạo chính quyền CSVN thì thế, còn bên dưới họ ra lệnh cho công an tạo đủ loại chướng ngại. Bất cứ ở đâu có tổ chức lễ nghi với sự hiện diện của Đức Đại Diện thì các nẻo đường dẫn tới địa điểm hành lễ đều có bố trí đủ loại công an ngăn đường, xét hỏi, xách nhiễu. Đồng bào giáo dân đã phải băng rừng lội suối tránh các chốt chặn. Và khi khối lượng giáo dân lên cao như ở Pleichuet đến gần hai vạn người thì mọi người nhận ra ngay những tên lén lút quay phim, chụp hình để bắt nguội.
Trong thánh lễ sáng Chúa Nhật 11/9/2011, Đức Cha Đại Diện Tòa Thánh đã trích dẫn thông điệp của Đức Giáo Hoàng trong ngày truyền giáo: "Đặc biệt, tôi muốn nói đến các Giáo Hội địa phương và các vị thừa sai đang làm chứng nhân và mở mang Nước Chúa trong hoàn cảnh bị bách hại, đang bị đàn áp nhiều cách: từ tình trạng bị kỳ thị về mặt xã hội cho đến ngục tù, tra tấn và sát hại. Ngày nay vẫn còn không ít nhà thừa sai bị giết vì ‘Danh Chúa’".
Thay lời kết
Nhìn thái độ đối xử này, người dân Tây Nguyên và người Việt nói chung không thể không lấy làm lạ. Rất lạ. Tiếp đón một đại diện ngoại giao từ nước khác đến thì các quan chức tại đây vô lễ và hùng hổ như thế. Nhưng đối với các toán công nhân Trung Quốc đang "làm việc" tại các tỉnh Tây Nguyên, dù ở cấp thấp nhất, thì từ các quan chức tỉnh đến các công an khu vực đều biểu lộ thái độ e dè, làm ngơ, né tránh, và thậm chí nể sợ.
Đó là "chính sách lớn" của Đảng?
Nguồn: Viettan
Kishore Mahbubani |
Ở Tây phương, người ta thường nói: có hai nghề rất khó tìm ra người tử tế và nói thật: những người bán xe cũ và các chính trị gia.
Xe cũ đến mấy, khi vào tiệm, cũng đều được đánh bóng; và qua miệng của người bán hàng, tự nhiên biến thành mới, đẹp, an toàn, sang trọng và, dĩ nhiên, mắc tiền hơn hẳn. Có điều sự gian dối của những người bán xe cũ, nghĩ lại, cũng chẳng thấm tháp gì. Thứ nhất, họ chỉ lừa được từng người. Và mỗi người chỉ bị lừa, xui lắm, vài lần trong đời. Là hết. Vả lại, mức lừa cũng có giới hạn. Chiếc xe cũ trị giá thực khoảng năm ngàn, họ nâng lên khoảng 7,8 ngàn là nhiều. Có lẽ hiếm khi nào tăng được gấp đôi. Lý do là họ còn chịu sức ép cạnh tranh của các đối thủ khác. Thứ hai, dù sao đó cũng là chuyện mua bán. Mà nguyên tắc chính của mua bán là sự đồng thuận (thuận mua vừa bán).
Các chính trị gia thì khác. Từ mà giới chính trị gia thường nói nhiều nhất có lẽ là từ “sự thật” hay “chân lý” (kiểu “Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi!”). Nhưng rất hiếm khi chân lý ấy là chân lý thật. Thường là giả. Lại là thứ giả do cố ý: chúng là những sự dối trá. Có thể nói một cách ngắn gọn: chính trị là dối trá. Tìm được một nhà chính trị thành thực, nhất là thực thà, là một điều bất khả. Sự khác biệt giữa nhà chính trị này và nhà chính trị kia, về phương diện này, chỉ là ở mức độ, kể cả mức độ dối trá cũng như mức độ khôn khéo khi dối trá. Vậy thôi.
Nói đến sự dối trá của các nhà chính trị, tôi nhớ ngay đến một nhận định của một nhà cựu ngoại giao người Singapore, Kishore Mahbubani, trong một bài viết trên The Financial Times mới đây:
“Các nhà độc tài đang sụp đổ. Các chế độ dân chủ cũng đang sụp đổ. Một trùng hợp lạ lùng chăng? Hay có lẽ, đó là dấu hiệu của một sự thay đổi căn bản nào đó trong khuynh hướng lịch sử nhân loại? Tôi ngờ là như vậy. Tại sao các nhà độc tài tồn tại? Tại chúng nói láo. Muammar Gaddfi là một trong những tên nói láo lớn nhất của mọi thời đại. Hắn tuyên bố là nhân dân nước hắn yêu hắn. Hắn kiểm soát mọi nguồn thông tin đến nhân dân hắn bằng cách ngăn chận mọi sự thật khác với những gì hắn kể. Rồi các máy điện thoại di động đơn giản ra đời nối kết mọi người lại với nhau. Sự thật lan tràn rộng rãi, cuốn trôi mọi sự dối trá mà tên đại tá đã phát đi phát lại trên các đài truyền thanh. Tương tự như vậy, ở Ai Cập và Tunisia, các chế độ mất quyền kiểm soát trên các tự sự. Nói một cách vắn tắt, kỹ thuật đã và đang xói mòn khả năng nói láo của các tên độc tài đối với nhân dân nước chúng. Vậy tại sao các nền dân chủ cũng đang sụp đổ cùng lúc? Câu trả lời đơn giản: các nền dân chủ cũng đang nói láo.”
Cho các nền dân chủ đang sụp đổ kể cũng vội. Có lẽ Mahbubani chỉ căn cứ vào sự suy thoái kinh tế ở một số nước. Cho Gaddafi là kẻ nói láo lớn nhất mọi thời đại kể cũng hơi vội. Nghĩ xem, những điều Mahbubani kể về tội nói láo của Gaddafi, với người Việt chúng ta, nghe quen thuộc lắm, phải không? Thì, ở nước ta, cũng có người lúc nào cũng xưng xưng tuyên bố là được cả nước yêu mến đó thôi. Không phải chỉ yêu mến suông. Mà yêu mến như bác, như cha, như ông cơ! (Nhớ câu hát:”Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn các em nhi đồng”.)
Không ai có thể chối cãi là ở các nước dân chủ, các chính trị gia cũng nói láo. Nói láo trắng trợn nữa là khác. Đã có nhiều người viết nhiều cuốn sách dày cộm về thứ chính trị dối trá (the politics of lying) ở Tây phương với vô số bằng chứng hùng hồn. George W. Bush nói láo về sự hiện diện của các loại vũ khí giết người hàng loạt của Sadam Hussein như cái cớ để tấn công Iraq. Đã đành. Ngay chính Barack Obama cũng bị kết tội nói láo khi không dám nhìn nhận sự thật là kinh tế Mỹ đang bị khủng hoảng nghiêm trọng và cần phải có những biện pháp cứu vãn mạnh mẽ và quyết liệt. Nhưng đó chỉ là những lần nói láo lớn. Còn những lần nói láo nhỏ hơn thì chắc chắn là nhiều hơn.
Tuy nhiên, dù nhiều đến mấy, chắc chắn các chính trị gia ở các nước dân chủ cũng không thể nói láo nhiều bằng các chính trị gia ở các nước độc tài. Ở các nước dân chủ, ít nhất cũng còn có các phe đối lập và giới truyền thông vốn lúc nào cũng rình rập để bắt quả tang những lời nói láo. Rồi tri hô. Rồi vạch mặt. Rồi phê phán. Biết vậy, giới làm chính trị, dù muốn nói láo, cũng đâm ra dè dặt. Ở các nước độ tài thì ngay cả những sự dè dặt tối thiểu cũng không có. Họ độc quyền trên các cơ quan truyền thông. Radio là của họ. Truyền hình là của họ. Báo chí là của họ. Không ai dám nghi vấn họ cả. Họ cứ nói như thánh phán. Rồi sẽ có cả bọn nịnh bợ xúm vào tâng bốc. Thành ra họ nói láo dễ dàng như việc họ mở miệng ban huấn từ. Nhân dân yêu mến họ. Nhân dân tin tưởng họ. Nhân dân ủng hộ họ. Một triệu người là nhân dân. Một ngàn người là nhân dân. Thậm chí, một người – chính họ – cũng là nhân dân nốt.
Một mình họ tha hồ tô vẽ các tự sự hoang đường về chính họ. Họ nói láo không biết ngượng mồm là vì vậy. Có thể nói, nếu đặc điểm đầu tiên của các tên độc tài là nói láo, thì đặc điểm thứ hai của chúng chính là: tuyệt đối không biết xấu hổ khi nói láo. Tuyệt đối.
Ví dụ, ở Việt Nam, sau khi câu chuyện Lê Văn Tám, cậu bé bán đậu phộng rang tẩm xăng tự đốt rồi chạy đến kho xăng, nhảy vào một thùng xăng gần nhất, làm bùng cháy cả một kho xăng lớn của Pháp vào năm 1946, gần đây, bị vạch trần là một câu chuyện hoàn toàn bịa đặt. Có ai xấu hổ không? Có. Hai người: một là Trần Huy Liệu, một sử gia; và hai là Phan Huy Lê, cũng là sử gia. Còn giới chính trị thì sao? Không ai lên tiếng cả. Lê Văn Tám, cho đến bây giờ, vẫn được đặt tên đường, tên công viên và tên trường học. Hàng ngày, học sinh vẫn ra rả đọc các bài ca tụng “anh Tám” anh hùng chống Pháp.
Còn bao nhiêu chuyện khác nữa.
Nhưng thôi. Lại nhớ một câu viết của Mahbubani trong đoạn văn dẫn trên: “kỹ thuật đã và đang xói mòn khả năng nói láo của các tên độc tài đối với nhân dân nước chúng.” Kẻ thù của những tên độc tài, như vậy, chẳng phải là đảng này đảng nọ đứng đằng sau xúi giục các biểu tình chống Trung Quốc đâu. Chúng chính là các blog, twitter, facebook và những chiếc máy điện thoại di động đấy, các “đồng chí” ạ. (Nhớ trả công tôi về việc tố giác này đấy nhé!)
TS. Nguyễn Hưng Quốc
Vietthuc
Thuyền trưởng Hát (bên phải), đang kể lại sự việc |
Luật hàng hải quốc tế đã quy định quá rõ ràng sự đặc miễn xâm phạm sinh mạng, hàng hoá, tàu bè của ngư dân vô tội ngay cả trong thời gian giao tranh, thế thì tại sao câu hỏi của Mẹ Nấm nêu ra “Ai đang bám biển cùng ngư dân?” và “Ai đang bảo vệ ngư dân?” đến nay vẫn không có câu trả lời thoả đáng và chưa có một hành động bảo vệ chính thức nào từ những kẻ lãnh đạo đất nước này? Phải chăng đã đến lúc nhà cầm quyền Việt Nam muốn 86 triệu dân phải xuống đường để tự bảo vệ lấy đất nước của chính mình trước sự hung hãn ngày càng gia tăng của Trung Quốc ?!!! Ngày xuống đường ấy của đại khối dân tộc gần hay xa là tùy vào mức độ vô năng và bất xứng của những người lãnh đạo !!! ...
Ngày 24 tháng 9 năm 2011, lúc 13 giờ, 2 tàu đánh cá của ngư dân Quảng Ngải bị tàu Trung Quốc tấn công, đuổi bắn trong nhiều giờ, nhiều ngày khi đang trú bão tại đảo Trụ Cẩu, thuộc khu vực quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Hai tàu cá mang biển số QNg 95337TS và QNg 95850TS. Chủ nhân kiêm thuyền trưởng là ngư dân Trương Văn Đức và ngư dân Trương Tài.
Điều khoản 3 của Công Ước Quốc Tế “The Hague” (“The Hague Convention”1907) có hiệu lực từ ngày 26 tháng 1 năm 1910, quy định “Những Giới Hạn Liên Quan Đến Quyền Bắt Giữ Trong Chiến Tranh Hải Quân”[1]: “những tàu chuyên dùng cho việc đánh cá dọc theo bờ biển được miễn trừ ... không được bắt giữ...”. Luật này được quốc tế quy định và áp dụng trong thời chiến giữa các quốc gia tranh chấp và sau đó trở thành tập quán luật pháp chung (“customary law”) áp dụng cho tất cả các nước trong cộng đồng “văn minh” thế giới (“civilized nations”).[2]
Điều khoản này sau chiến tranh Đệ Nhị Thế Chiến đã được các nước đồng quy định lần nữa trong các Công Ước Geneva (Geneva Conventions) 1949, được thông qua năm 1977. Điều khoản 48 của Công Ước yêu cầu lực lượng vũ trang của các quốc gia tranh chấp trong vùng phải “phân biệt giữa dân thường và chiến binh; và giữa các đối tượng dân sự và các mục tiêu quân sự”.[3]
Điều khoản 54 của Công Ước Geneva cũng quy định lực lượng vũ trang của các nước không được quyền tấn công, không được quyền huỷ hoại mà còn “phải bảo vệ những phương tiện không thể thiếu cho sự sống còn của người dân”.[4]
Xét về khía cạnh luật pháp quốc tế, Trung Quốc đã vi phạm trầm trọng tất cả các điều khoản trên. Việc tấn công, truy đuổi, bắn, đốt các tàu cá ngư dân với mục tiêu hủy hoại phương tiện “không thể thiếu” cho sự sống còn của gia đình các ngư dân, trong vùng biển không thuộc chủ quyền của Trung Quốc, lại không phải trong lúc đang có chiến tranh với Việt Nam, và nhất là trong lúc hai tàu cá vô tội chỉ đang tránh bão, cho thấy tính chất dã man, hung hãn đầy thú tính của Trung Quốc.
Các luật sư Việt Nam có thể nêu câu hỏi mang tính “kỹ thuật pháp lý” rằng nếu Việt Nam không thuộc các quốc gia thành viên đồng ký tên trong các Công Ước quốc tế nêu trên, thì liệu ngư dân Việt Nam thấp cổ bé miệng có được luật công ước thế giới bảo vệ hay không trước sự tàn ác ngày càng quá khích của Trung Quốc? Câu trả lời là có; dựa trên hai điểm chính:
1) Thứ nhất, Việt Nam không cần thiết phải là thành viên ký kết của các công ước trên vì các công ước ấy chỉ nhằm áp dụng trong thời chiến. Việt Nam và Trung Quốc đang không có chiến tranh với nhau. Nguyễn Tấn Dũng và Đới Bỉnh Quốc gần đây nhất vẫn ôm nhau hôn thắm thiết. Do đó, ngư dân Việt Nam lẽ ra không cần đến các công ước trên mới được bảo vệ vì ngay cả nếu Trung Quốc và Việt Nam đang ở trong tình trạng chiến tranh thì Công Ước The Hague và Geneva 1949 cũng quy định “những tàu chuyên dùng cho việc đánh cá dọc theo bờ biển được miễn trừ ... không được bắt giữ...”. Nếu trong chiến tranh đã thế thì trong thời bình lại càng không thể tấn công ngư dân. Trong luật pháp, đây gọi là quy tắc có thể được giả định (presumptive rule).
2) Thứ hai, những điều khoản trong các công ước trên được các quốc gia trong thế giới văn minh ngày nay công nhận như “luật nhân đạo trong chiến tranh” (“the humanitarian laws of war”) và mang tính phổ quát cho cộng đồng nhân loại. Việt Nam không nhất thiết phải là đối tác ký kết trong các Công Ước này mới nhận được sự ủng hộ của công pháp quốc tế. Nhất là khi Việt Nam và Trung Quốc đang trong “thời bình” nên việc Trung Quốc vô cớ xâm phạm với mục tiêu huỷ diệt sinh mạng, tài sản, tàu bè ngư dân đã là vi phạm công pháp quốc tế. Và nhất là không phải một lần, mà là nhiều lần, trong nhiều năm!!!
Tuy nhiên, trong chúng ta, ai cũng hiểu vấn đề ngư dân được bảo vệ hay không, đầu tiên trách nhiệm phải do chính những người lãnh đạo Việt Nam có dám “đặt vấn đề” với Trung Quốc hay không? Có dám truy tố Trung Quốc trước toà án tư pháp quốc tế để đòi bồi thường thiệt hại cho ngư dân mình hay không? Đây không phải là lần đầu tiên Trung Quốc hung hăng đuổi bắn tàu ngư dân Việt Nam đang đánh cá trong vùng biển thuộc chủ quyền của đất nước. Qua những cuộc tiếp xúc, phỏng vấn và thông tin trên báo chí qua các phóng sự thực hiện bởi Phạm Thanh Nghiên can đảm nhiều năm trước và Mẹ Nấm lúc gần đây, cho chúng ta thấy không chỉ những phương tiện tàu bè, lưới, chài của ngư dân bị tiêu huỷ, mà máu và sinh mạng của nhiều ngư dân đã bị huỷ hoại bởi lực lượng hải quân và tàu vũ trang của Trung Quốc. Việc Trung Quốc cắt cáp tàu Viking I & II cũng đã vi phạm trầm trọngCông Ước “The Hague”: “ngoài tàu đánh cá ven biển của ngư dân, các tàu thuyền hoạt động mang tính chất khám phá khoa học đều được miễn trừ không được bắt giữ hay huỷ hoại”, (“immunity for “coastal fishing boats” and vessels engaged in scientific discovery”). Điều khoản 22 của công ước Geneva Convention 1949cũng miễn trừ cho các tàu bệnh viện quân đội không phải bị bắt giữ (“military hospital ships”), dù là trong lúc giao tranh.
Việc các quốc gia trên thế giới lên tiếng bảo vệ đến cùng các tàu đánh cá của ngư dân họ khi bị “tàu lạ nước khác” tấn công đã có từ những năm xa xưa 1898. Ngày 27 tháng 4 năm 1898, hai tàu đánh cá của ngư dân Tây Ban Nha bị tàu chiến của Hoa Kỳ bắt giữ trong vùng hải phận ven biển Cuba. Lúc đó Hoa Kỳ và Tây Ban Nha đang trong thời kỳ giao tranh. Sau khi bắt giữ hai tàu cá có treo cờ Tây Ban Nha, (chủ nhân gốc Tây Ban Nha sinh sống tại Cuba), Hoa Kỳ đã tuyên bố hai tàu đánh cá này là “chiến lợi phẩm” chiến tranh, và đã bán đấu giá tàu “Paquette Habana” với giá $490 và tàu “Lola” với giá $800 đô. Chính phủ Tây Ban Nha kiện quân đội Mỹ và đòi bồi thường tổn thất cho ngư dân họ. Toà án tối cao của Hoa Kỳ đã phán quyết quân đội Hoa Kỳ phải hoàn trả toàn bộ những của cải, tài sản đã tịch thu của hai tàu ngư dân, đồng thời phải bồi thường thêm tất cả những tổn phí, thiệt hại do việc bắt giữ và đấu giá hai tàu ngư dân ấy.[5] Đấy là trong thời chiến tranh đang diễn ra giữa hai nước Hoa Kỳ và Tây Ban Nha và vụ án lại xẩy ra khi “văn minh nhân loại” còn ở thập kỷ 1900; và các công ước quốc tế The Hague và Geneva còn chưa ra đời. Thế thì hôm nay những người lãnh đạo Việt Nam đã làm gì để bảo vệ ngư dân mình khi họ bị xâm phạm?
Ngay cả Đế chế Nhật Bản trong thời kỳ giao tranh với Trung Quốc, tháng 8 năm 1894 đã ban hành pháp lệnh: “những loại tàu bè sau đây của “kẻ thù” được miễn trừ không bắt giữ, tịch thu, bao gồm tàu đánh cá và những tàu đang trên đường hải hành với mục tiêu khám phá khoa học, hoạt động từ thiện hay mang nhiệm vụ tôn giáo” [6]. Tưởng cũng nên nói thêm là Nhật Bản vào thời điểm ấy, là nước cuối cùng (nhưng đầu tiên trong vùng Á châu) được cộng đồng quốc tế công nhận vào hàng “các nước văn minh” (“ranking of civilized nations”) và qủa là xứng đáng! Việt Nam học được gì và Trung Quốc có biết “xấu hổ” chăng khi hành xử thiếu “văn minh” và man rợ như dã thú ?
Gần trăm năm trước đó, tháng 4 năm 1798, vụ Anh quốc bắt giữ các tàu cá nhỏ của ngư dân Pháp và Hoà Lan, theo đúng pháp lệnh của Toà án Tối Cao của Hải Quân Anh (High Court of Admiralty of England) cho phép bắt giữ các tàu ngư dân Hoà Lan trên biển làm chiến lợi phẩm chiến tranh. Tuy rằng trong thế kỷ 17 khi văn minh nhân loại và pháp luật quốc tế còn sơ khai, toà án Anh quốc cũng đã công nhận trong phiên toà xét xử vụ bắt giữ các tàu cá “the Young Jacob and Johanna” rằng quyền miễn bắt giữ các tàu ngư dân dù không được quy định trong bất cứ văn bản pháp lý nào giữa các nước liên hệ, tuy nhiên, đây là một đặc quyền miễn trừ được công luận quốc tế công nhận từ lâu, và được dựa trên quy tắc giao tế hữu nghị giữa các nước.[7] Ngày 16/03/1801 khi chính phủ Addington lên nắm quyền tại Anh, đã rút lại các pháp lệnh ban hành trên của toà án tiền nhiệm, và quyền tự do đánh cá đã được tái lập giữa Anh và Pháp. Những năm sau đó, 1806 và 1810, chính phủ Anh đã ra lệnh cấm tàu vũ trang quân sự tuyệt đối không được xâm phạm các tàu đánh cá của ngư dân các nước khác. Trong đặc tập “Luật Hàng Hải Về Việc Bắt Giữ và Tịch Thu Chiến Phẩm”, xuất bản 1815, của Wheaton, đã ghi rõ: “Đây là một quy định đã được bình thường hóa trong luật chiến tranh hàng hải để miễn trừ không bắt giữ các tàu đánh cá và hàng hoá của họ. Quy định này phát xuất từ cả hai quan điểm: tương ứng có lợi cho các nước láng giềng đang giao tranh, và từ sự quan tâm đến những người dân nghèo khó và cần cù”.[8] Nguyễn Tấn Dũng có biết nghĩ đến sự “nghèo khó” và “cần cù” của ngư dân nước ta để mỗi sáng thành phố có cá tươi làm thực phẩm, và nhà nước có cá để xuất khẩu chăng ?
Quy luật bảo vệ tàu đánh cá của ngư dân cũng đã được Pháp và Ý tôn trọng trong thời gian giao tranh the Crimean war năm 1859, và sau đó giữa Pháp và Đức năm 1870. Trong Công Ước Hoà Bình (Treaty of Peace) giữa Hoa Kỳ và Mễ Tây Cơ năm 1846 khi 2 nước này đang giao tranh còn quy định rõ hơn rằng ngay cả việc bắt giữ ngư dân, hay gây bất kỳ khó khăn nào cho việc theo đuổi nghề nghiệp trên biển của họ, xâm phạm hàng hóa hay nhà cửa của ngư dân đều bị nghiêm cấm tuyệt đối.[9] Thế thì sinh mạng của các ngư dân Việt Nam đã bị giết, bị bắt cóc, giam tù, thân thể tàn phế, bệnh tật, tàu bè bị huỷ hoại, phương tiện và vốn liếng kiếm sống duy nhất của cả gia đình họ đều bị tàu vũ trang của Trung Quốc chiếm đoạt, đòi chuộc ... liệu những kẻ cầm quyền Việt Nam có dám yêu cầu Trung Quốc ký “công ước hoà bình” cam kết tôn trọng và bồi thường tổn thất nếu xẩy ra, như Mễ Tây Cơ đã làm với đại cường quốc láng giềng Hoa Kỳ không ???
Luật hàng hải quốc tế đã quy định quá rõ ràng sự đặc miễn xâm phạm sinh mạng, hàng hoá, tàu bè của ngư dân vô tội ngay cả trong thời gian giao tranh, thế thì tại sao câu hỏi của Mẹ Nấm nêu ra “Ai đang bám biển cùng ngư dân?” và “Ai đang bảo vệ ngư dân?” đến nay vẫn không có câu trả lời thoả đáng và chưa có một hành động bảo vệ chính thức nào từ những kẻ lãnh đạo đất nước này? Phải chăng đã đến lúc nhà cầm quyền Việt Nam muốn 86 triệu dân phải xuống đường để tự bảo vệ lấy đất nước của chính mình trước sự hung hãn ngày càng gia tăng của Trung Quốc ?!!! Ngày xuống đường ấy của đại khối dân tộc gần hay xa là tùy vào mức độ vô năng và bất xứng của những người lãnh đạo !!!